Xứ Thượng một thời canh tác nương rẫy...
CHỌC LỖ TRA HẠT
Ngày trước - ông bảo thật ra bây giờ vẫn còn đấy nhưng người ta kín đáo bí mật hơn vì sợ bị chê "mê tín", mà cũng hơi ngượng khi tiết lộ - vào đầu mùa, đêm trước buổi bình minh xuống giống, hai vợ chồng thường lặng lẽ dắt tay nhau lên rẫy từ khi còn mờ đất, không để cho ai thấy, ai biết. Ở đấy, họ cởi hết quần áo, trần truồng, như trong buổi tinh mơ của nhân loại, trong veo, chồng đi trước cầm gậy nhọn chọc lỗ, vợ theo sau với bụm giống trong lòng bàn tay còn nóng hổi hơi bàn tay chồng, nhẹ nhàng tỉa từng hạt lúa xuống lòng đất vừa hé mở háo hức và thẹn thò. Vậy đó, hạt lúa trên cao nguyên. Là mẹ. Là đàn bà. Là hoan lạc của giao hòa và thai nghén. Của sinh thành...
(Theo nhà văn NGUYÊN NGỌC)
...
Vào ngày gieo cấy, người ta tiến hành lễ trỉa lúa cho cả buôn. Lễ vật khá đơn giản, chỉ cần một con gà và một ché rượu. Chủ nhà sai người cột sẵn ché rượu cúng ở gian khách, một gùi lúa giống và các loại hạt giống khác để trong cái mẹt cũng đặt cạnh ché rượu làm lễ vật cúng. Trong lễ cúng còn có các cây gậy chọc lỗ được làm từ rừng mang về. Tùy theo nhà dài có bao nhiêu bếp ăn thì làm gậy chọc lỗ nhiều hay ít, cứ mỗi bếp cần phải có hai gậy và một ống nứa đựng lúa giống (ding nuh). Thầy cúng ngồi bên mẹt hạt giống, tay cầm bát đồng đựng huyết gà hòa với rượu miệng khấn cầu các thần. Khấn xong ông tưới rượu có hòa huyết gà lên các cây gậy chọc lỗ, ống đựng lúa giống và các loại hạt giống.
Sau lễ cúng một ngày, sáng sớm họ lên rẫy trỉa lúa ngay. Trước khi chọn lỗ tra hạt, chủ rẫy bôi máu gà lên các cây gậy chọc lỗ và các ống đựng lúa giống khi tra hạt. Chủ rẫy chỉ chọc vài nhát làm phép rồi làm lễ cúng tại nơi đã bày sẵn các lễ vật. Khi ông ta khấn xong thì các thành viên khác bắt đầu công việc trỉa lúa, cứ một người chọc lỗ thì có 2 người đi sau tra hạt.
(Trích theo Lễ Cúng Vòng Đời Lúa Của Người Ê Đê trênhttp://www.anywhere.com.vn/ )
...
Tất cả các dân tộc bản địa cư trú trên địa bàn Tây Nguyên đều sống bằng nghề phát nương làm rẫy. Hầu hết các dân tộc di cư đến Tây Nguyên (kể cả một bộ phận không nhỏ người Kinh) cũng tham gia canh tác nương rẫy. Mỗi dân tộc có những đặc trưng riêng trong canh tác nương rẫy, nó phản ánh nhận thức, kinh nghiệm, truyền thống và tín ngưỡng tôn giáo của họ. Tuy nhiên, ta vẫn thấy những nét chung của hệ canh tác nương rẫy ở Tây Nguyên là:
+ Hệ canh tác là một phương thức sử dụng đất, trong đó một mảnh rừng được phát dọn, thường là bằng lửa để trồng cây lương thực một vài vụ, rồi bỏ hóa để chuyển sang phát một mảnh rừng khác;
+ Mỗi năm, đồng bào chỉ canh tác một mùa rẫy tương ứng với mùa mưa của từng vùng. Chu trình canh tác được diễn ra với nhiều công đoạn khác nhau và tuân thủ một nông lịch rất chặt chẽ: các công đoạn chính của chu trình canh tác nương rẫy là: (I) Chọn địa điểm (về nguyên tắc chung, thường đồng bào chọn các khu rừng già, đất tốt, ít cây bụi, dây leo; (II) Phát, dọn; (III) Đốt; (IV) Chọc tỉa; (V) Chăm sóc, làm cỏ; (VI) Thu hoạch; (VII) Bỏ hóa.
(Trích đoạn "Canh tác nương rẫy của một số dân tộc thiểu số ở tây nguyên và các chính sách, giải pháp sử dụng hợp lý đất rừng" của Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét