Giới thiệu về tôi

Ảnh của tôi
Buôn Ma Thuột, Tây Nguyên, Vietnam

Thứ Năm, 31 tháng 12, 2015

Độc đáo món thịt chua xứ Mường

(Dunghangviet.vn) - Sẽ là thiếu sót nếu về xứ Mường Thanh Sơn (Phú Thọ) mà bỏ qua món thịt chua nổi tiếng thơm ngon.

Người Mường ở Thanh Sơn vốn nổi tiếng có tài khéo léo chế biến các món ẩm thực mang đậm bản sắc dân tộc mình. Trong đó, món thịt chua được đồng bào chế biến từ bao đời nay.

Theo những người già xứ Mường, khi xưa mảnh đất này có nhiều lợn rừng, lợn đen ngon. Khi mổ lợn, muốn giữ ăn lâu ngày người dân đã nghĩ ra cách làm món thịt chua để ăn dần. Thịt chua được muối trong ống tre, ống nứa dày rồi bịt kín đầu và treo lên gác bếp để ăn quanh năm.
Món thịt chua xứ Mường hấp dẫn và thơm ngonMón thịt chua xứ Mường hấp dẫn và thơm ngon - Ảnh: Nguyễn Thế Lượng
Ngày nay, vật dụng sẵn nên người Mường Thanh Sơn chế biến và muối thịt chua vào chai lọ cho tiện.

Nguyên liệu để chế biến thịt chua khá đơn giản nhưng hết sức cầu kỳ. Lợn để làm thịt chua phải là lợn Mán đen, nuôi tự nhiên, không nuôi bằng chất kích thích và chỉ ăn rau củ trên rừng. Thịt lợn ăn phải thơm ngon, săn chắc, bì phải giòn mới đủ tiêu chuẩn làm thịt chua.

Ngoài thịt còn có thính ngô hay thính gạo nghiền nhỏ, rang vàng cho thơm. Thính là gia vị quan trọng để làm nên vị thơm ngon của thịt chua xứ Mường. Cùng với thính là muối tinh và lá ổi loại bánh tẻ dùng để rắc đầy lên bề mặt của thịt.

Khâu chế biến khá quan trọng và cẩn thận. Thịt lợn Mán được sơ chế sạch sẽ, loại bỏ hết phần bạc nhạc bên ngoài, để nguyên phần thớ thịt. Dùng dao sắc mỏng thái lát mỏng miếng thịt thành từng miếng nhỏ sau đó tẩm ướp gia vị và thính cho đều rồi nén thịt vào ống tre hoặc lọ nhựa. Thịt càng nén chặt càng giòn và ngon.

Sau đó, người ta dùng lá ổi rửa sạch để khô phủ lên bề mặt thịt, dùng hai thanh nứa nén chặt bên trên lá ổi rồi mới bịt ống hay đậy nắp lọ.

Thịt chua được ủ nơi thoáng khí và sạch sẽ. Nếu vào mùa hè, thịt lên men 3-4 ngày là ăn được. Vào mùa đông, do khí hậu lạnh nên để khoảng 5-6 ngày. Thịt chua có thể giữ được vị ngon trong khoảng thời gian 2-3 tháng.

Với người dân xứ Mường, thịt chua là một món ăn hấp dẫn dùng thết đãi khách quý.

Người Mường dùng các loại lá trên rừng hay có sắn trong vườn nhà để ăn kèm với thịt chua như lá sung, lá mơ, lá nhội… Khi ăn, gia vị chấm không thể thiếu là tương ớt.
Thịt chua được muối trong ống treThịt chua được muối trong ống tre
Thưởng thức món thịt chua xứ Mường sẽ mang lại nhiều dư vị khác nhau. Có vị giòn sần sật của bì lợn. Vị béo của thịt, vị bùi của thính hòa vào vị chua thanh của men thịt cùng vị chát bùi của các loại lá.

Ngồi trên căn nhà sàn người Mường, nhấp chén rượu nếp, ăn miếng thịt chua sẽ cảm nhận hương vị nồng nàn của ẩm thực nơi đây. Thịt chua được người dân Thanh Sơn chế biến quanh năm và có thể sử dụng bất cứ thời gian nào trong năm.

Ngày nay, tại đất Mường Thanh Sơn, người dân chế biến món thịt chua ngày càng nhiều. Nhiều cửa hàng bán thịt chua mọc lên ven đường hay trong các bản làng. Chế biến không chỉ để ăn mà còn làm quà biếu hay bán ra thị trường khắp các vùng.

Thanh Sơn là vùng đất cổ, nơi sinh sống của đồng bào dân tộc Mường. Nơi đây không chỉ nổi tiếng với danh lam thắng cảnh đẹp mà còn hấp dẫn những món ăn đậm đà, độc đáo do chính người dân làm ra. Trong đó, món thịt chua được xem là đặc sản của vùng núi rừng Thanh Sơn và là món ăn mang đậm chất văn hóa của cư dân Mường nơi đây.
Nguyễn Thế Lượng 
Nguồn: Tuổi trẻ 

Thứ Tư, 30 tháng 12, 2015

Ngủ thăm – phong tục độc đáo của người Mường, Hòa Bình

                  


(Cinet – DTV) - Người Mường (Hòa Bình) còn tồn tại một phong tục rất độc đáo, đó là "ngủ thăm". Nếu mọi chuyện tốt đẹp, sau vài lần ngủ thăm, chàng trai sẽ mang bạc trắng, lợn béo sang hỏi cô gái làm vợ.

Đây là một tục lệ đã có hàng nghìn năm tuổi của đồng bào các dân tộc thiểu số Thái, Mông, Dao, Mường… Tuy nhiên, trong cuộc sống hiện đại ngày nay, tục ngủ thăm nhiều nơi đã không còn tồn tại. Chỉ có ở bản Mọc, xã Đồng Nghê tục cạy cửa ngủ thăm vẫn còn được giữ gìn nguyên sơ.
Tối tối khắp xóm lại nhộn nhịp bước chân trai tráng trong làng và thanh niên các xóm lân cận. Các chàng trai bản Mọc bắt đầu biết cạy cửa từ lúc mới 14 tuổi. Tất cả con trai trong bản đều nắm rõ nhà nào có con gái mới lớn, then cửa chỗ nào, bên trong có gậy chống hay không, nhà có mấy con chó... Bất kể nhà nào, cứ có con gái chưa chồng từ 14 tuổi trở lên, con trai đều có thể đến cạy cửa ngủ thăm. Nhiều nhà còn tự hào vì con gái mình có nhiều người đến ngủ thăm.
Khi đêm xuống, các chàng trai chưa vợ có thể cạy cửa nhà các thiếu nữ mới lớn để chui vào tán tỉnh. Vào được rồi, chàng ta sẽ nằm xuống bên cạnh cô gái và phải để tự bàn tay cô gái ấy tắt hay vặn nhỏ ngọn đèn. Hai người chỉ được trò chuyện, tâm sự ở tư thế chung chăn, chung gối mà không được chạm vào người nhau.
Tuy nhiên, một chàng trai sau khi cạy cửa vào được nhà, chui được vào màn nhưng chưa chắc đã được các thiếu nữ cho ngủ thăm. Có cô gái dửng dưng, có cô cự tuyệt, có cô hét toáng lên khiến một số chàng chưa đủ kinh nghiệm non gan chạy " mất dép".
Theo phong tục của người dân nơi đây, người lạ muốn cạy cửa ngủ thăm thì phải xin phép trưởng bản trước, nếu không sẽ bị trai bản đánh chết.
Người Mường xưa cho rằng, tình cảm không chỉ là chuyện riêng tư của đôi trai gái mà còn là mối quan tâm chung của thổ thần (thần đất, quán xuyến công việc của mỗi nhà), tổ tiên và gia đình. Do đó người con trai (từ 15 tuổi trở lên) phải cạy cửa vào tận giường tâm tình cùng người con gái trước sự chứng kiến của ba bề, bốn bên.
Hành động cạy cửa cũng chính là dịp để thử tài khéo léo, giỏi giang của chàng trai. Việc “vào tận nhà, xà tận giường” đối tượng cũng chính là dịp để người con trai tìm hiểu gia cảnh của người con gái mà mình có thể lấy làm vợ... Sau vài đêm đêm tìm hiểu như thế, cô gái sẽ có quyền quyết  định cho chàng trai “ngủ thật” hay không. Nếu mọi chuyện tốt đẹp, sau vài lần ngủ thăm, chàng trai sẽ mang bạc trắng, lợn béo sang hỏi cô gái làm vợ.
Giờ đây, mặc dù đời sống văn hóa có nhiều đổi thay, nhưng tối tối bản Mọc vẫn nhộn nhịp bước chân các chàng trai đi cạy cửa ngủ thăm. Đó là một nét văn hóa riêng, độc đáo của người Mường nơi đây.
TH

Thứ Ba, 29 tháng 12, 2015

Chợ Mường ngày mở hội

(Dân Việt) Tôi đã đi nhiều nơi, dường như ngôi làng nào cũng có chợ quê dân dã bán dưới gốc đa làng. Nhưng chợ ở quê tôi có nét đặc trưng riêng, vui nhất phải là những ngày làng Mường mở hội. Vẫn là những người bán hàng quen thuộc ấy nhưng ngày hội họ ăn mặc đẹp hơn, không khí người bán, người mua, đi chơi chợ nhộn nhịp... nên chợ làng những khi ấy rộn rã lắm.

Mỗi năm, vào dịp ngày hội, làng tôi lại mở hội rước kiệu. Những dịp ấy, thường có khá đông người từ mường trong, mường ngoài, từ các đô thi lên, từ vùng núi cao xuống vui Xuân. Người đến xem rước bóng, xem hát đối, xem đi cà kheo… nhưng vẫn không quên vòng qua những gian hàng chợ quê bữa nay mở dưới bóng cây đa làng.
cho muong ngay mo hoi hinh anh 1
Chợ làng Mường ngày hội (ảnh: Bùi Việt Phương)
Đã đi xa quê lâu, nhưng ngày Xuân tôi vẫn không quên về dự hội làng. Những ngày hội này, ngay từ sáng sớm ở bãi đất bên ngôi đình mới được trùng tu, bên gốc đa bao đời, người dân đã chải  những manh chiếu, tấm bạt để bán các mặt hàng thôn dã.
Vì là ngày hội nên cô, bác nào cũng ăn vận đẹp hơn. Những chiếc váy, chiếc áo, thắt lưng xanh vừa mới được khâu vá xong tháng trước, giờ được mọi người trưng diện đi chơi hội. Những mặt hàng cũng theo nhu cầu như thế mà đổi thay. Nào là những tấm thổ cẩm được thêu thùa công phu, những chiếc vòng bạc, những con quay, quả còn…
Nhớ ngày xưa bà tôi kể, đi chợ ngày hội đâu chỉ mua về sự may mắn, mà chính là được vui với cái không khí đông vui, nhộn nhịp dẫu phải chen lấn, mà cốt là để người ta gặp gỡ nhau. Người dân chân lấm, tay bùn, bấy lâu bận rộn đi rừng, đi làm thợ thuyền… giờ gặp nhau hàn huyên chuyện cũ, hỏi nhau làm có khấm khá, con cái đã lớn khôn dựng vợ gả chồng được chưa để tìm ông mối se duyên…
Nhưng vui nhất vẫn là các chàng trai, cô gái đã hò hẹn nhau từ trước ngày hội, hay tình cờ gặp mặt như một cơ duyên trời đất. Những khi ấy, những người bán hàng cũng chẳng thấy buồn bởi người khách mua chỉ mải giao duyên, tỏ tình.
Chiều về, khi kiệu rước bóng về trong núi, hội tan dần, cũng là lúc bà con trở về những thôn bản. Bãi cỏ xanh dưới gốc đa làng dần trở lại sự tĩnh lặng, bình yên. Những người bán hàng phiên chợ hội cũng bùi ngùi dọn hàng về. Có người năm nào cũng gánh hàng ra chợ hội, người già cả năm sau chắc chẳng còn quẩy gánh hàng xuân đi chợ lẫn nữa. Hẹn năm sau dưới bóng cây đa làng, lại có phiên chợ ngày hội để mọi người mua lấy điều may và tiếng cười vụ mùa no ấm cho toàn Mường.

BÙI VIỆT PHƯƠNG.



 


Thứ Hai, 28 tháng 12, 2015

Kiến trúc nhà sàn cổ của người Mường

Kiến trúc nhà sàn cổ của người Mường

Sự kiện: Kiến trúc Việt

Về Hòa Bình, nhiều du khách ngỡ ngàng khi ngắm những ngôi nhà sàn cổ và độc đáo. Qua bao thế hệ, người dân tộc Mường vẫn giữ nguyên nét bình dị trong kiến trúc xây cất nhà sàn cổ, nhưng chứa đựng những vẻ đẹp độc đáo.

Theo cụ Nguyễn Văn Nam, một cao niên người dân tộc Mường, xã Bình Thanh, huyện Cao Phong kể lại: “Xưa kia, ở xứ Mường cổ, hình thái tổ chức xã hội đặc thù là chế độ Lang đạo, các dòng họ Lang đạo như: Đinh, Quách, Bạch, Hà… chia nhau cai quản các vùng. 

Đứng đầu mỗi Mường có các Lang cun, dưới Lang cun có các Lang xóm hoặc Đạo xóm, cai quản một xóm. Trong áng mo “Đẻ đất, đẻ nước” của người Mường cũng có đoạn kể: Một hôm Lang Đá Cần, vị Lang đầu tiên cai quản đất Mường đi bẫy và bắt được một con rùa. Con rùa van nài Lang đừng giết thịt, bù lại rùa mách bảo cho cách làm nhà sàn. Rùa dạy: “Bốn chân tôi là bốn cột cái/Hai mai tôi là hai mái nhà/Xương sống tôi là đòn nóc/Chặt cây lim làm cột/Lạt buộc bằng cây giang/Cỏ gianh dùng để lợp”.
kien truc nha san co cua nguoi muong hinh anh 1
Những nếp nhà sàn đơn sơ của người Mường.
Câu chuyện này được coi như một điển tích về sự ra đời nhà sàn của người Mường. Nó gắn liền với những phong tục tập quán, sinh hoạt thường ngày của người dân bản. Và cho tới ngày nay, những nếp nhà sàn đó vẫn còn vẹn nguyên với người dân nơi đây. 

Hình ảnh con rùa cho đến nay không chỉ là con vật linh thiêng được người Mường tôn thờ mà còn sáng tạo ra một cách tính ngày tốt, giờ tốt gọi là phương pháp “trừ đá Rò” (Rò ở đây được hiểu là Rùa). Phương pháp này dùng để tiến hành dựng nhà hay cưới hỏi và làm những việc quan trọng khác của làng và dân bản.

Trong truyền thống văn hoá của dân tộc Mường thì không cho phép dựng nhà thành hàng, lối nhưng bao giờ, nhà sàn cũng đều ở vị trí dựa lưng vào thế đất cao như sườn đồi, sườn núi để đón nhận tiết trời trong lành và tiện cho việc sinh hoạt, săn bắn, đi rừng. Ở giữa màu xanh thiên nhiên núi rừng, những nếp nhà sàn vẫn tồn tại như một minh chứng rõ nét nhất về sức sống lâu bền của văn hoá Mường hàng nghìn năm qua.
kien truc nha san co cua nguoi muong hinh anh 2
Những ngôi nhà sàn nằm tựa lưng vào thế núi.
Nhà sàn của người Mường thường phân ra ba mặt bằng: Mặt trên cùng là gác để đựng lương thực, đồ dùng gia đình; sàn nhà là nơi sinh hoạt nghỉ ngơi; còn gầm sàn nhà dùng để các dụng cụ sản xuất, nhốt gia súc, gia cầm. Mỗi nhà có thể bày biện, trang trí khác nhau nhưng cấu trúc cơ bản về gian, buồng giống nhau.

Nguyên liệu cơ bản được bà con sử dụng để dựng nhà sàn là gỗ, thường là các loại gỗ trai, chò chỉ, nghiến, sến, táu, dổi, de, đinh, lát...

Ngoài gỗ để làm các chi tiết chính, nhà sàn của người Mường cần sử dụng các loại tre, bương, hóp để làm đòn tay, đan vách... Cột nhà làm bằng gỗ tròn hoặc vuông nhưng phổ biến là tròn; chân cột thường được chôn xuống đất nhưng cũng có nơi dùng các hòn đá tảng để kê. Vì chân cột nhà sàn thường được chôn sâu xuống đất từ 80cm - 1m nên phải làm cột bằng thứ gỗ không bị mối ăn, không mục, không mọt.
kien truc nha san co cua nguoi muong hinh anh 3

kien truc nha san co cua nguoi muong hinh anh 4
Những bậc cầu thang của người Mường nhất thiết phải là số lẻ
Nhà sàn cổ truyền của người Mường thường cấu trúc một gian hai chái, hai gian hai chái, ba gian hai chái... (tương đương ba gian, năm gian, bảy gian...). Các cửa số, kể cả cửa voóng toong (cửa sổ chính) chỉ làm ở phía trước của ngôi nhà. 

Giữa các gian thường không có cửa một cách chắc chắn, chỉ có sự phân biệt có tính chất tượng trưng. Riêng buồng con dâu, con gái lớn, mặc dù không có cửa nhưng những quy ước bất thành văn rất chặt chẽ, được tuân thủ nghiêm ngặt rằng, ai khi nào được vào và ai khi nào không được vào.

Đặc biệt, ở bất kỳ hướng cửa sổ nào với người Mường đều được coi là thứ rất linh thiêng và là điều tối kỵ nếu phụ nữ ngồi lên cửa sổ. Cửa sổ trong tiềm thức và phong tục lâu đời của người Mường là dùng để tiễn đưa những người thân trong gia đình sang thế giới bên kia sẽ đi theo lối này.
kien truc nha san co cua nguoi muong hinh anh 5
Từ ngôi nhà sàn qua cửa sổ có thể ngắm phong cảnh xung quanh.
Trước đây nhà sàn cổ sử dụng đinh gỗ, đinh tre, chêm gỗ để cố định mộng chính và dùng các loại dây leo bện để níu những mộc phụ theo hình chữ X. Hiện nay bà con nơi đây đã biết sử dụng đinh sắt để thay cho dây lạt, dây rừng có tuổi thọ không cao. Mái nhà sàn truyền thống thường được lợp bằng cỏ gianh, lá cọ nên nhà người Mường ấm áp về mùa đông, mát mẻ về mùa hè.

Người Mường xưa thể hiện sự giàu có, địa vị xã hội bằng cách làm nhà to, làm nhiều nhà. Nhà sàn của nhà lang bậc trung hồi đầu thế kỷ XX thường dài đến 100m. Với nhà lang nhỏ thường làm nhà dài 30 đến 40m, nhà dân thường có khả năng kinh tế thì thường khoảng 20m. Vì thế, nhà sàn là trung tâm trong không gian sống rất đặc trưng của người Mường.
kien truc nha san co cua nguoi muong hinh anh 6
Hàng bao năm nay nhà sàn của người Mường vẫn lưu giữ được nét xây dựng xưa.
“Màn” hay còn gọi là cầu thang thường được làm bằng gỗ hoặc nguyên thân cây gỗ tròn và tạo bậc trên chính những thân cây đó hay cũng có thể được đẽo thành hình chữ nhật. Cầu thang không dựng thẳng vào cửa chính mà dựng vào mép một cái sảnh gỗ và đặt vuông góc với chiều đòn nóc của nhà.

Trong nhà sàn của người Mường, không gian được chia theo cả chiều dọc và chiều ngang. Từ cầu thang chính bước vào phần giữa sàn nhà phía dưới bếp, phía ngoài là để tiếp khách, phía trong là nơi sinh hoạt của cả gia đình. Trong nhà, theo chiều dọc, phía trên có các cửa sổ gọi là cửa voóng, chỗ ngồi gần cửa voóng thường dành cho người cao tuổi, còn phía dưới dành cho lớp trẻ. Theo chiều ngang, phía ngoài dành cho nam giới, phía trong dành cho nữ giới.
kien truc nha san co cua nguoi muong hinh anh 7
Nhà sàn luôn là niềm tự hào của người Mường.
Theo phong tục của người Mường khi làm cầu thang thì bậc thang nhất thiết phải là số lẻ và được dựng ở các thế đất khác nhau. Theo quan niệm của người Mường, số lẻ của bậc thang thể hiện ước nguyện quy luật vào - ra - vào thì của cải sẽ không đi ra ngoài, gia đình luôn được êm ấm, đoàn tụ, con cháu thành đạt. Số lượng bậc có thể là 3, 5, 7, 9… nhưng tuyệt đối không được là số chẵn.

Điều thú vị nhất trong tổng thể cách xây dựng nhà sàn của người Mường, thì đó là những kết cấu hoàn chỉnh không chỉ tạo dựng nên một ngôi nhà sàn đặc trưng từ cổ kim đến giờ vẫn nguyên vẹn. Lý thú hơn cả, là ở mỗi bộ phận cấu thành nên nhà sàn nó lại mang một ý nghĩa tâm linh sâu sắc gắn kết chặt chẽ với con người hàng nghìn năm không thay đổi.
Theo (Theo Dân Trí)

Chủ Nhật, 27 tháng 12, 2015

Khái quát lịch sử trước khi thành lập tỉnh Mường

(HBĐT) - Tỉnh Mường - tỉnh Hòa Bình còn rất trẻ, năm 2011 này mới vừa tròn 125 năm thành lập và phát triển (1886). Tuy nhiên, lịch sử của tỉnh Hòa Bình không phải chỉ được tính từ năm 1886, theo Dụ thành lập tỉnh Mường của quan Kinh lược Bắc kỳ mà phải tính từ khi con người thời tiền sử đã sinh sống cách nay hàng nghìn năm, thậm chí hàng vạn năm về trước trong các hang động, mái đá vôi của tỉnh.
  
Di tích hang Chổ, xã Cao Răm (Lương Sơn) thu hút sự quan tâm của đông đảo du khách quốc tế. Ảnh: P.V

Có thể nói, ngay từ   khi vùng đồng bằng Bắc bộ còn là vùng đầm lầy, biển cả, trong các thung lũng ở Hòa Bình đã hình thành một trung tâm văn hóa lớn - văn hóa Hòa Bình. Nền văn hóa Hòa Bình đó được nhà nữ khảo cổ học người Pháp Madelen Colani phát hiện từ các di chỉ nằm trong các hang động, mái đá thuộc vùng núi đá vôi ở Hoà Bình. Năm 1926, M.Colani đã phát hiện và khai quật 20  di chỉ có vết tích khảo cổ trong các thung lũng đá vôi của tỉnh Hòa Bình, thu được một khối lượng hiện vật phong phú, trong đó, chiếm chủ yếu là các công cụ đá được ghè đẽo từ
các hòn cuội suối. Sau kết quả khai quật, trong công trình nghiên cứu “Thời đại đá trong tỉnh Hoà Bình” xuất bản năm 1927, M.Colani đã đưa ra thuật ngữ “Văn hoá Hoà Bình” để đặt tên cho nền văn hoá này. Hội nghị tiền sử Viễn Đông lần thứ nhất họp tại Hà Nội năm 1932 đã được các nhà khoa học trên thế giới  chính thức thừa nhận thuật ngữ “Văn hoá Hoà Bình” (VHHB). Về mặt niên đại,  M.Colani xếp VHHB thuộc thời đại đá giữa với khung niên đại tuyệt đối từ 18.000 năm đến 7.500 năm cách ngày nay. Theo M.Colani, cư dân VHHB sống thành từng bầy đoàn trong hang động. Họ săn bắn, hái lượm để kiếm sống là chủ yếu. Con người thời đó đã biết sử dụng công cụ cuội với cách chế tác ghè, đẽo tạo ra các loại công cụ có hình hạnh nhân, hình đĩa và sau là công cụ hình rìu ngắn.

Tiếp theo những nghiên cứu của M.colani, từ những năm 1960 của thế kỷ trước, ngành khảo cổ học Việt Nam đã tiến hành khai quật, nghiên cứu trên 120 di tích của văn hoá Hoà Bình. VHHB có không gian phân bố rộng, có mặt ở hầu khắp các nước Đông Nam á, riêng trong tỉnh Hoà Bình đã có 70 di tích được phát hiện khai quật, nghiên cứu. Tỉnh Hòa Bình là nơi các di chỉ phân bố dày đặc nhất. Hiện nay, trên cơ sở những tư liệu mới và ứng dụng các phương pháp khoa học trong việc xác định niên đại, các nhà khảo cổ học Việt Nam đã tìm ra một khung niên đại tuyệt đối của VHHB  từ 18.420 năm đến 7.500 năm cách ngày nay, nằm vắt ngang từ thế cánh tân (Pleistocen) sang thế Toàn tân (Holosen). Qua nghiên cứu, các nhà khảo cổ học Việt Nam đã xếp VHHB thuộc thời đại đá mới - thời đại xuất hiện rìu mài lưỡi, đã xuất hiện nghề nông sơ khai và họ đã biết sử dụng đồ gốm. Các di tích ở Hoà Bình có niên đại sớm nhất, tiêu biểu là hang xóm Trại (Tân Lập - Lạc Sơn) có niên đại 18.420 năm cách ngày nay, là cái nôi đầu tiên của nền văn hoá này. Mặt khác, các di vật trong các tích ở Hoà Bình cũng rất tiêu biểu, đại diện cho kỹ nghệ chế tác cuội ở Việt Nam. Hoà Bình còn là nơi duy nhất ở Việt Nam tìm thấy dấu tích nghệ thuật của con người thời văn hoá Hoà Bình, đó là bức vẽ hình mặt người và ba đầu con thú ăn cỏ trên vách hang Đồng Nội. Có thể nói, nền văn hoá này đã được ra đời sớm và phát triển rực rỡ nhất tại các hang động núi đá vôi của tỉnh. Chế độ công xã nguyên thủy cũng đã được hình thành trong thời kỳ văn hóa Hòa Bình, đó là thời kỳ của các bộ lạc, thị tộc và vai trò của các thủ lĩnh bộ lạc, thủ lĩnh thị tộc.

Khi đã biết đến sản xuất nông nghiệp, cải tiến công cụ, năng suất lao động tăng lên, con người dần thoát khỏi sự lệ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên. Từ nơi cư trú trong hang động, con người đã bước ra sinh sống trên các gò đồi ven sông, suối. Ngoài công cụ sản xuất chủ yếu bằng đá, con người đã biết đến kim loại, sử dụng kim loại đồng, sắt để làm công cụ. Cũng từ đây, loài người bước sang thời đại kim khí, bao gồm các giai đoạn phát triển từ thấp lên cao: từ văn hoá Phùng Nguyên, Đông Đậu, Gò Mun ( hay còn gọi là thời kỳ tiền Đông Sơn) đến đỉnh cao là nền văn hoá Đông Sơn.

Các di tích văn hoá tiền Đông Sơn phân bố chủ yếu ở vùng gò đồi trước núi. Trong đợt khai quật tại di tích hang Chổ (Cao Răm - Lương Sơn) đã phát hiện được một ngôi mộ táng, tuy chỉ thấy một số răng người, vòng trang sức bằng vỏ ốc, công cụ đá mài tinh xảo và các mảnh gốm chôn trong mộ nhưng sự phân bố các hiện vật trong hố khai quật đã cho thấy đây là một ngôi mộ táng thuộc văn hoá Phùng Nguyên, cách ngày nay khoảng trên 4.000 năm.

Cho đến nay ở Hoà Bình đã phát hiện được ba khu vực ven các dòng sông có các di vật của văn hoá Đông Sơn, tại các huyện: Lạc Thuỷ, Mai Châu và Đà Bắc. Hiện vật tìm thấy bao gồm: trống đồng, rìu, lưỡi giáo, mũi lao. Tại di tích hang xóm Trại (Lạc Sơn), trong đợt khai quật năm 2006 cũng đã tìm thấy nhóm hiện vật là các mảnh gốm của thời tiền Đông Sơn.

Các di vật tìm thấy tại các địa điểm trên đã phần nào xác định được vùng ảnh hưởng của văn hoá Đông Sơn dọc theo phía thượng lưu của các con sông lớn như sông Đà, sông Mã, sông Hoàng Long, sông Bưởi. Tại tỉnh hẳn đã có một bộ phận cư dân Đông Sơn đến cư trú vào giai đoạn muộn của nền văn hoá này. Với số lượng không ít về công cụ sản xuất, vũ khí và 11 chiếc trống Đông Sơn phát hiện ở các ven dòng sông đã chứng tỏ sự có mặt khá sớm của văn hoá Đông Sơn ở vùng đất này. Trong giai đoạn văn hóa Đông Sơn, chế độ xã hội đã có nhiều thay đổi, các nhà nghiên cứu cho rằng mô hình nhà nước sơ khai đã ra đời. ở Việt Nam, đó là nhà nước Văn Lang của các vua Hùng.

Hoà Bình là tỉnh phát hiện được nhiều trống đồng loại II Heger (trên 100 chiếc) và địa bàn phân bố của nó trùng khít với địa bàn cư trú của người Mường. Trống đồng loại II Heger gắn bó lâu dài trong đời sống sinh hoạt văn hoá tinh thần của người Mường. Những chức năng ban đầu là biểu tượng thần thoại của trống trong nghi thức cầu mưa, cầu mùa liên quan đến nghề nông nay đã phai nhoà. Đối với người Mường, chức năng rõ nét của trống đồng là biểu tượng quyền uy của tầng lớp lang đạo và là một nhạc cụ dùng trong tang lễ. Với tư cách là tộc người sử dụng và phát huy truyền thống trống đồng, đặc biệt với trống đồng loại II, người Mường được xem là chủ nhân của những chiếc trống đó. Đã có nhiều học giả cho rằng trống đồng loại II Heger có thể đặt tên là trống đồng Mường.

Trong ngàn năm Bắc thuộc, các tư liệu nói về tỉnh Hòa Bình hầu như quá ít bởi Hòa Bình là vùng rừng núi, người Hán ít có khả năng vươn tới để cai trị và đồng hóa, do vậy có thể nói là tỉnh ít chịu ảnh hưởng của văn hóa ngoại lai.

Bước sang thời kỳ lịch sử trung đại, tương ứng với lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam từ Đinh, Lý, Trần, Lê, Nguyễn, lịch sử của thời kỳ này ở Hòa Bình còn khá mờ nhạt, còn thiếu nhiều tư liệu, nó được nằm lẫn trong bức tranh của lịch sử chế độ phong kiến việt Nam nói chung. Tuy nhiên, cùng tồn tại song hành với chế độ phong kiến trung ương tập quyến ở người Việt thì người Mường lại duy trì đó chế độ xã hội lang đạo do các dòng họ lớn: Đinh, Quách, Bạch, Hà cai trị dân Mường. Vào đầu thời nhà Lê, đích thân vua Lê đã cầm quân theo đường sông Đà ngược lên Lai Châu để đánh dẹp giặc Đèo Cát Hãn. Khi thắng trận trở về, nhà vua Lê Lợi đã cho khắc bài thơ trên vách đá ở khu vực thác Bờ. Nội dung bài thơ nói về đạo lý đánh giặc và phương lược phòng thủ với vai trò quan trọng đường thủy của sông Đà. Hiện nay, tấm bia có giá trị lịch sử ấy vẫn đang được lưu giữ tại Bảo tàng tỉnh.

Vào những năm 70 của thế kỷ XX, các nhà khảo cổ học đã tiến hành khai quật, nghiên cứu các di tích mộ Mường. Các khu mộ được khai quật gồm khu mộ cổ Đống Thếch (Kim Bôi), mộ cổ xóm Lồ, xóm Lý (Tân Lạc), mộ Đồi Thung, Ngọc Lâu (Lạc Sơn),  mộ Kim Truy (Kim Bôi), Nhuận Trạch, Cư Yên (Lương Sơn), khu mộ cổ Dũng Phong    (Cao Phong) và khu mộ cổ Đống Bay (Tân Lạc). Đây là các khu mộ cổ tiêu biểu cho bốn vùng Mường lớn: Bi, Vang, Thàng, Động ở Hoà Bình. Niên đại của các khu mộ cổ nằm trong khoảng từ thế kỷ XI-XVIII. Kết quả khai quật các di tích mộ cổ này đã thu được nhiều tư liệu quan trọng, góp phần tìm hiểu quá khứ lịch sử của dân tộc Mường, từ phân tầng xã hội đến táng tục và là xã hội có nền kinh tế mở thông qua các hiện vật gốm sứ là đồ tùy táng trong mộ có nguồn gốc gốm sứ Việt Nam và gốm sứ Trung Quốc, Nhật Bản. Cũng thông qua các cuộc khai quật, nghiên cứu đó phần nào đã góp phần cho việc tìm hiểu về nền văn hoá văn minh Việt cổ bởi các nhà nghiên cứu còn cho biết, trước thế kỷ X, người Mường và người Kinh cùng có chung một nguồn cội mà lịch sử gọi là người Việt cổ hay Việt - Mường chung.    
  
Trong thời kỳ cận hiện đại, lịch sử và văn hóa của người Mường đã được các học giả nước ngoài quan tâm nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu của các học giả nước ngoài đã lần lượt giới thiệu về các lĩnh vực lịch sử, văn hóa, xã hội của người Mường Hòa Bình từ thời tiền sử cho đến thời cận hiện đại. Tiêu biểu như: “Tỉnh Mường Hòa Bình” của học giả người Pháp Pierre Grossin xuất bản lần đầu bằng tiếng Pháp năm 1926. “Thời đại đá trong tỉnh Hòa Bình” của Madelen Colani xuất bản năm 1927. “Người Mường - Địa lý, xã hội và nhân văn” của nữ Tiến sĩ người Pháp Jane Cuisinier xuất bản năm 1936, “Người Mường ở Hòa Bình” của Trần Từ. Ngoài ra còn rất nhiều các công trình nghiên cứu về các lĩnh vực đời sống KT-XH của tỉnh.

Một điều đáng tự hào là không chỉ người ngoài nghiên cứu về lịch sử, văn hóa, xã hội của người Mường mà chính người Mường đã sáng tác những tác phẩm văn học nghệ thuật đặc sắc, tiêu biểu nhất phải kể đến sử thi “Đẻ đất đẻ nước”, rồi các truyện như: “Huỳnh Nga Hai Mối”, “út Lót Hồ Liêu”, “Vườn hoa núi cối”, truyện cười dân gian, ca dao, tục ngữ, các làn điệu dân ca, dân vũ, âm nhạc cồng chiêng và các tri thức dân gian khác. Tuy nhiên do người Mường không có chữ viết, vì vậy, các tác phẩm văn học đều được lưu truyền bằng miệng từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Về đời sống kinh tế trước cách mạng tháng Tám, nền kinh tế của người Mường là kinh tế tự nhiên, mang nặng tính tự cấp, tự túc, trong đó, nông nghiệp, đặc biệt là nông nghiệp trồng lúa nước đóng vai trò chủ đạo. Ruộng lúa nước của người Mường thường có hai loại: loại ruộng lầy trũng và loại ruộng bậc thang. Kỹ thuật làm thuỷ lợi khá phát triển, đặc biệt là thuỷ lợi nhỏ, làm mương bai để lấy nước đã trở thành một tập quán của người Mường. Việc đắp đập đào mương được quy định rõ trong việc làng. Trong quá trình sản xuất, người Mường đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm, từ việc làm đất, gieo trồng, thời vụ, chọn giống, chăm bón, thu hoạch. Công cụ sản xuất chủ yếu là cày, bừa dùng sức kéo trâu, bò. Ngoài việc lúa nước, người Mường còn trồng trọt trên nương rẫy. Công cụ làm nương khá đơn giản bao gồm cái rìu, con dao và gậy chọc lỗ. Nương được trồng nhiều loại: lúa nương, ngô, khoai, sắn và một số cây họ đậu, rau quả. Kinh tế phụ gia đình của người Mường bao gồm chăn nuôi gia súc, gia cầm, săn bắn, đánh cá và khai thác lâm  sản.

Thủ công nghiệp chưa tách khỏi nông nghiệp, sản phẩm của nghề thủ công chủ yếu phục vụ cho sản xuất và đời sống hàng ngày, chưa hình thành các tổ chức phường hội. Các nghề thủ công có thể kể đến là: dệt, đan lát, làm nhà, các dụng cụ gia đình, ép dầu, trồng dâu nuôi tằm. Hầu hết các dụng cụ, đồ dùng gia đình người Mường đều tự làm lấy, họ chỉ phải mua các thứ đồ kim loại, đồ gốm sứ, diêm, muối và thuốc lào. Trong nghề thủ công, đặc biệt là nghề dệt vải, cạp váy, mặt phà gắn liền với vai trò người phụ nữ.

Thương nghiệp kém phát triển, ở vùng Mường rất ít chợ, kinh tế hàng hoá chưa hình thành, trước đây việc mua bán thông qua hình thức trao đổi vật lấy vật rất phổ biến.

Về chế độ xã hội trước Cách mạng Tháng Tám 1945 của người Mường là chế độ lang, đạo. Bộ máy lang, đạo, một mặt chịu sự lệ thuộc vào triều đình Trung ương như đi hầu, cống nạp các sản vật quý hiếm, mặt khác, vào khoảng thế kỷ XIX, lang đạo, cũng còn chịu sự ép buộc của chính quyền thực dân Pháp. Tuy vậy, cơ cấu vận hành của chế độ nhà lang mang tính độc lập tương đối, hay nói cách khác là lang đạo quản lý dân thôn theo kiểu “tự trị”. Như vậy, trong suốt thời kỳ phong kiến Việt Nam, người Việt ở đồng bằng chịu sự cai trị của triều đình phong kiến trung ương tập quyền, còn người Mường sống dưới chế độ lang đạo, lang cun được xem là vị vua của người Mường. Chế độ lang đạo được duy trì theo hình thức cha truyền con nối, chỉ trừ trường hợp không có con trai nối dõi hoặc lang đạo quá hà khắc thì người dân có quyền truất bỏ và bầu lên một vị lang mới thay thế, giúp việc cho nhà lang là bộ máy các ậu. Chế độ lang đạo tồn tại lâu dài trong lịch sử, thời kỳ cực thịnh của chế độ lang đạo ở Hòa Bình có thể tương ứng với thời nhà Lê (cách nay trên 500 năm).

Sẽ còn rất nhiều điều phải tiếp tục nghiên cứu về lịch sử, đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội con người vùng đất Hòa Bình trước khi thành lập tỉnh năm 1886. Tuy nhiên, trong khuôn khổ một bài viết ngắn, chúng tôi không có tham vọng trình bày hết được mà chỉ xin điểm qua những nét chính để thấy được lịch sử Hoà Bình có những nét cơ bản tương ứng với nhũng giai đoạn phát triển chính trong tiến trình của lịch sử Việt Nam, đó là các văn hoá thời đại đá, văn hoá thời đại kim khí  và các văn hoá lịch sử thời dựng nước, thời kỳ chế độ phong kiến về sau. Để hiểu biết quá khứ hàng ngàn năm của dân tộc, đương nhiên còn nhiều vấn đề phải tiếp tục trong tương lai cần có sự tâm huyết của nhiều nhà nghiên cứu.

Diện mạo lịch sử của tỉnh trước khi thành lập, cho dù mới chỉ là những đường nét chấm phá còn sơ sài, nhiều giai đoạn lịch sử đã qua chưa được soi rọi nhưng những gì mà các nhà khoa học nghiên cứu đã cho chúng ta thấy một kho tàng di sản văn hoá đồ sộ, độc đáo của các thế hệ tiền nhân để lại.Với chiều dài hàng vạn năm, nhiều nền văn hoá đã nảy sinh và phát triển rực rỡ trên mảnh đất Hoà Bình thân yêu của chúng ta. Chúng ta tự hào với quá khứ hào hùng của dân tộc và tự tin để vững bước cùng cả nước thực hiện công cuộc đổi mới, CNH-HĐH, sớm đưa thành tỉnh giàu mạnh, phát triển bền vững. 


                                                                     TS. Quách Văn Ạch
                                                                          (Sở VH-TT&DL)

Thứ Bảy, 26 tháng 12, 2015

Lễ hội và trò chơi của người Mường


Lễ hội và các trò chơi dân gian
Lễ hội là một hình thức sinh hoạt của cộng đồng, thể hiện lòng thành kính đối với những người có công với làng, với nước, ý thức cộng đồng và khát vọng về một cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
DSC_0174 DSC_0186 DSC_0200 DSC_0226 DSC_0256 DSC_0293 DSC_0308
Lễ hội ở người Mường khá phong phú, nó ra đời, tồn tại và phát triển trên nền tảng của nền nông nghiệp trồng lúa nước. Lễ hội cũng là không gian của âm nhạc cồng chiêng, của những làn điệu dân ca Mường “ Rằng thường, Bọ mẹng”, của những điệu múa dân gian mộc mạc. Lễ hội ẩn chứa những giá trị đa chiều của một nền văn hóa- là một phần sinh động của bản sắc văn hóa Mường.
Cũng giống như lễ hội của người Việt, lễ hội ở người Mường gồm hai phần chính:
+ Phần lễ: Thể hiện sự ngưỡng mộ đối tượng thờ phụng, tưởng nhớ công ơn, cầu mong sự may mắn.Vị chủ tế trong phần lễ thường là Thầy Mo có uy tín hoặc một vị quan Lang trong vùng.
+ Phần hội: Tổ chức các trò chơi dân gian để mọi người thi tài, vui chơi thoải mái trong sự bình đẳng giữa các thành viên cộng đồng.
Một số lễ hội của người Mường: Lễ hội Khuống mùa ( Khai Hạ), lễ hội đình Vai, đình Cổi, lễ hội chùa Hang, chùa Kè, đình Xàm, lễ hội đền Bờ, lễ hội đền và miếu Trung Báo,….
Một số trò chơi dân gian của người Mường:
+ Ném còn, kéo co, nhún đu, đánh mảng, đánh cù, đẩy gậy, bắn nỏ, đi cà kheo, đi cầu thăng bằng, đè khà ( tương tự như vật tự do).
Ngày nay, ngoài các trò chơi dân gian trong các lễ hội Mường còn tổ chức các trò chơi, các cuộc thi vừa kết hợp giữa hiện đại và cổ truyền như: thi đánh bóng chuyền, bóng đá, đan sọt, thi biểu diễn các tiết mục văn nghệ truyền thống, thi nấu ăn các món ăn Ẩm thực Mường, cuộc thi người đẹp giữa các thiếu nữ Mường duyên dáng,…đã nói lên sự đa dạng và hấp hẫn trong lễ hội Mường.

Thứ Sáu, 25 tháng 12, 2015

Cồng chiêng trong đời sống văn hóa của người Mường, Hòa Bình


(Cinet – DTV) – Đối với người Mường (Hòa Bình), cồng chiêng không chỉ đơn thuần là nhạc cụ mà đã trở thành giá trị văn hóa tinh thần không thể thiếu trong đời sống cộng đồng.
Cồng chiêng không chỉ đơn thuần là nhạc cụ mà đã trở thành giá trị văn hóa tinh thần không thể thiếu trong đời sống cộng đồng của người Mường (Hòa Bình). Ảnh: Internet
Có thể nói, cồng chiêng có mặt ở mọi lúc, mọi nơi trong lao động, sinh hoạt đời thường; trong quyền lực của lang đạo xưa và trong lễ nghi tín ngưỡng phong tục, trong suốt cuộc đời người Mường từ khi sinh ra đến khi về với Mường ma.
Không gian văn hóa cồng chiêng Mường bắt nguồn từ truyền thống văn hóa lịch sử lâu đời, được khẳng định trong quá trình lao động, sáng tạo nghệ thuật và được kế tục qua nhiều thế hệ. Dù chưa có công trình nghiên cứu về việc chế tác chiêng của người Mường nhưng từ xa xưa, họ đã biết thổi hồn cho cồng chiêng, sáng tác được các bản nhạc và tạo ra những phương thức đánh chiêng phù hợp với tính cách, tâm lý đặc trưng của dân tộc.
Một bộ cồng chiêng hoàn chỉnh có 12 chiếc, chia đều ra làm 3 bộ (chiêng dàm, chiêng bồng, chiêng tlé), ngoài ý nghĩa âm nhạc còn biểu hiện cho 12 tháng trong năm. Chiêng có mặt ở mọi lúc, mọi nơi trong lao động, sinh hoạt đời thường; trong quyền lực của lang đạo xưa và trong lễ nghi tín ngưỡng phong tục, trong suốt cuộc đời người Mường từ khi sinh ra đến khi về với Mường ma. Chiêng còn là dụng cụ thông tin liên lạc, báo hiệu, phát lệnh khi bản làng có cướp bóc, giặc giã để tập hợp nhân dân cùng đoàn kết bảo vệ sự bình yên.
Một bộ cồng chiêng của người Mường (Hòa Bình). Ảnh: Internet
Cồng chiêng gắn bó với người Mường không chỉ để thỏa mãn nhu cầu thưởng thức âm nhạc mà có vai trò lớn trong lao động, sản xuất. Trong khi trống đồng là loại vật linh được coi là quyền sở hữu của tầng lớp lang đạo lớn xưa thì cồng chiêng chiếm lĩnh, lan tỏa trong không gian rộng lớn, in sâu, hòa đậm trong mỗi bản làng, gia đình một cách dung dị.
Người Mường có tới 24 lễ hội có sử dụng cồng chiêng như lễ mừng nhà mới, thành hôn, khai hạ... Nếu cồng chiêng Tây Nguyên người đánh chủ yếu là nam giới thì với người Mường là nữ giới. Nhiều tài liệu ghi lại, trước đây, người Mường đã sử dụng tới trên 1.000 cô gái với phương thức hòa tấu, trình diễn trên 1.000 chiếc chiêng. Âm nhạc nền nếp, sôi động, giai điệu hòa thanh chuẩn mực, động tác, đội hình chuyển động thướt tha, giàu mỹ cảm.
Ngày nay, với phương thức trình diễn linh hoạt, cởi mở, từ dàn chiêng nhỏ tới dàn chiêng hoành tráng hàng ngàn chiếc phối hợp với nhiều hình thức khác tạo nên nền âm nhạc, không gian văn hóa cồng chiêng đương đại.
Không gian văn hóa cồng chiêng Mường hình thành, phát triển là một hiện tượng văn hóa đặc sắc, quý giá trong nền văn hóa nghệ thuật Việt Nam. Nó có giá trị cao, nâng đỡ sự cộng cảm, bồi dưỡng tinh thần cộng đồng và lòng tự hào dân tộc, góp phần tạo nên bản sắc riêng biệt đối với mảnh đất, con người Hòa Bình.
TH

Thứ Năm, 24 tháng 12, 2015

MỘT GIÁO XỨ NGƯỜI MƯỜNG



Trong tiết trời tháng Chín, khi Thu còn mải miết chơi đùa trên những chiếc lá vàng, chưa vội về để giao mùa thì làn gió Xuân đã về trên xứ Mường Bằng Phú. Xuân với niềm vui, niềm hạnh phúc vô biên, xuân với sức sống mãnh liệt, xuân với sự đâm chồi nảy lộc của niềm tin Kitô giáo, xuân về với trái chín đầu tiên – Tân linh mục Gioan Baotixita Đinh xuân Đức, một người con của giáo phận Thanh Hóa, một người con thân yêu của dân tộc Mường trở về quê vinh qui bái tổ. Khắp các ngõ làng của xứ Bằng Phú đâu đâu cũng thấy những nụ cười tươi trên môi của các em nhỏ đến các cụ già cao niên. Tiếng cồng, tiếng chiêng, tiếng đàn, tiếng hát hòa lẫn tiếng chim rừng thánh thót, tiếng đàn bò nhởn nhơ gặm cỏ, và cả tiếng lòng người thổn thức với khúc ca cảm tạ. Cảm tạ Chúa đã gieo hạt giống tình yêu và hi vọng trên mảnh đất Bằng Phú. Cảm tạ thánh ân Ngài đã chọn gọi một người con của dân tộc Mường làm linh mục…


Nằm cách Tòa Giám mục khoảng hơn 75km về phía Tây Bắc, Giáo xứ Bằng phú trải dài trên 2 huyện Thạch thành và Cẩm thủy, tỉnh Thanh Hóa. Ở đây, người Mường chiếm tỷ lệ hơn 95%. Đa số làm nghề chăn nuôi, trồng trọt. Trong những năm vừa qua, cuộc sống của bà con giáo dân xứ Mường đã có nhiều thay đổi. Tiếng Kinh của họ trôi chảy hơn. Nhiều căn nhà sàn được thay thế bằng những ngôi nhà vôi vữa cố định. Nhiều con đường dốc cheo leo sỏi đá, lầy lội khi mưa về đã được bê tông hóa. Bên đường là những cánh đồng lúa xanh mướt, báo hiệu một cuộc sống thanh bình. Người Mường cũng không còn cầu kỳ quá trong nếp ăn, cách ở như trước. Nó được “Kinh hóa” khá nhiều. Cồng chiêng, những bộ quần áo và những món ăn mang đậm tính Mường chỉ xuất hiện trong những ngày lễ lớn. Tuy vậy, Bằng Phú vẫn là một “sơn nữ nghèo”. Cái nghèo ấy thể hiện trên từng nếp tranh, hàng dậu; nhất là trên những bức tường loang lỗ rêu phong của nhà thờ các giáo họ.

Người Mường nghèo là thế, vất vả quanh năm là thế nhưng vẫn luôn “nặng lòng” với người cha chung là Đức Giêsu Kitô. Với hơn 100 năm ra đời, Xứ Mường có thể nghèo về kinh tế nhưng lại giàu về đức tin. Họ mến Chúa với nét hồn nhiên của con người miền sơn cước. Nhà xứ với kiểu nhà sàn truyền thống của người Mường, nơi đây lưu giữ nhiều dấu tích của các nhà truyền giáo năm xưa đã đưa Chúa đến cho họ. Không có lý gì, Đức Cha lại chọn Bằng Phú xa xôi, cheo leo đỉnh núi làm nơi khai mạc Năm Linh mục 2009. Tất cả là nhờ lòng nhiệt thành với Chúa của bà con giáo dân nơi đây.



Và cuối cùng hạt giống đức tin cũng đã nảy mầm trên mảnh đất “cằn cỗi” miền sơn cước, người con xứ Mường cha Gioan Baotixita Đinh Xuân Đức chính thức được thụ phong linh mục ngày 8-9-2011. Đối với người dân Bằng Phú, có niềm vui nào hơn thế!

Xa cái ồn ào đô thị, con đường ngoằn nghèo cheo leo đưa chúng tôi lên với giáo xứ Mường – Bằng Phú. Nếu như không phải là người có đạo chắc ai cũng đoán nơi đây đang mùa lễ hội. Những lá cờ lễ bay phất phới khắp các ngả đường. Mọi người trong những bộ quần áo đẹp nhất, sặc sỡ nhất đổ về nhà thờ Bằng Phú với nét mặt vui tươi, hạnh phúc. Những cô gái Mường xinh đẹp trong chiếc váy hoa văn thổ cẩm cười chúm chím. Các cụ bà, cụ ông chờ đợi để được nhìn thấy, để được bắt tay thăm hỏi các linh mục, các quan khách đến dự lễ. Các em nhỏ tung tăng chạy nhảy để hòa cùng niềm vui của giáo xứ.

Nhưng có lẽ đặc biệt nhất vẫn là đội cồng chiêng giáo xứ, được đánh bởi những người phụ nữ Mường. Tiếng cồng chiêng là biểu tượng cho niềm vui, cho lễ hội của người dân tộc. Khi tiếng cồng chiêng cất lên hòa cùng tiếng kèn, tiếng trống; hòa cùng những tiếng nói cười mộc mạc của người dân nơi cũng chính là lúc họ quên đi những vất vả thường ngày để hướng lòng về cõi bình yên, dâng lên Chúa những khúc cảm tạ của lòng mình.

Điều đặc biệt hơn nữa, chủ tế thánh lễ tạ ơn hôm nay là người dân tộc. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử giáo phận Thanh Hóa có một người Mường làm linh mục. Cha Gioan Baotixita cũng là linh mục trẻ tuổi nhất trong số 11 tân chức mới được thụ phong ngày 8-9 vừa qua. Cho dù khó khăn về ngôn ngữ, văn hóa và tập tục, nhưng cha đã vượt qua tất cả để đến với Chúa, làm người chăn chiên cho Chúa.

Trong bài giảng lễ, cha Antôn Phạm văn Châu đã chia sẻ: “…Xưa nay có nhiều câu trả lời cho câu hỏi, “linh mục Người là ai?”, linh mục là đại diện Đức Kitô, là Kitô thứ hai, linh mục là người mà các thiên thần phải nhường bước trước đường đi… Những định nghĩa đó làm người ta tưởng tượng linh mục là một người siêu phàm, nhưng dù linh mục có là ai đi nữa cũng là một con người với tất cả những hạn chế của con người, là tôi tớ của mọi người. Linh mục là sở hữu của tất cả cộng đoàn. Cha Gioan Baotixita đã quyết định thánh hiến, hi sinh bản thân, hiến dâng tuổi trẻ và cuộc đời làm tôi tớ Chúa, tôi tớ cộng đoàn”.

(Trích theo "Xuân sớm trên giáo xứ Mường – Bằng Phú: linh mục người dân tộc đầu tiên" của
Maria Én Trần).

Thứ Tư, 23 tháng 12, 2015

Hát ví đối Mường

Vấn vương hát ví xứ Mường

ANTĐ - Trong tiếng sáo Côi dìu dặt, câu hát ví Mường đối đáp bổng trầm lan tỏa trong không gian ấm áp bên nếp nhà sàn. Hương rượu cần nồng đượm bên bếp lửa quyện cùng điệu sáo, lời ca mang âm hưởng cội nguồn làm say đắm lòng du khách khi đến với Mường Bi.

Hát ví của cộng đồng người Mường ở Mường Bi (Hòa Bình) hiện nay phổ biến là hát đối đáp ứng tác theo ba làn điệu ví mới mà không hề có tên gọi riêng cho từng làn điệu. Người hát ứng tác lời tùy theo từng hoàn cảnh cụ thể, không có lời hát gốc. Lời hát ứng tác đối đáp giữa hai người, hai nhóm hát đối đáp nhau phải thống nhất theo giai điệu và chủ đề của người đặt lời hát đầu tiên. Cũng bởi tính ngẫu hứng và ứng tác tự do như vậy mà những người hát có thể đối đáp nhau cả ngày, đêm. Đối đáp nhau từ khi khai hội cho đến lúc hội tan thì mới dừng đối đáp, đối đáp để mời nhau ống rượu cần, để trai gái xứ Mường tỏ bày tâm sự trong những dịp lễ tết, cưới hỏi, hội hè. 

Hát ví Mường xưa có sự khác biệt khá lớn so với hiện nay, cả về giai điệu, làn điệu và lời hát. Hát ví lời cổ có bài hát và giai điệu riêng, lời hát cố định bằng tiếng Mường chứ không mang tính ứng tác như ví mới hiện nay, cũng không dịch sang tiếng phổ thông nên hiện nay không được phổ biến nhiều trong đời sống cộng đồng, chỉ có một bộ phận nhỏ nghệ nhân cao niên còn biết hát. Hát ví cổ thường chỉ sử dụng một loại nhạc cụ đệm là sáo Côi, loại sáo đặc biệt chỉ có 4 lỗ của người Mường, không như những loại sáo 6 lỗ thông thường, không dùng đàn Nhị đệm như ví mới, và làn điệu ví cổ cũng da diết hơn, khó hát hơn so với những làn điệu ví đối đáp hiện nay.

Hát Ví Mường phải có đệm sáo Côi. Chuyện kể rằng: xưa có nhà được bốn người con trai nhưng một người lại bị câm, không nói được. Đến khi cha chết, không biết làm cách nào để khóc cha, người con câm bèn làm chiếc sáo có 4 lỗ, tiếng sáo cất lên da diết thay cho lời khóc cha của người con hiếu thảo. Từ ấy trở đi, người Mường có chiếc sáo Côi. Khi thổi sáo Côi đệm cùng điệu ví, hai âm thanh sẽ cùng hòa quyện da diết, thiết tha tình cảm như tiếng lòng người bản Mường thật thà, ấm áp không thể nào quên.

Hát ví Mường trước kia không chỉ xuất hiện trong các dịp hội hè như hiện nay. Ví Mường có trong mọi hoạt động thường nhật của đời sống cộng đồng, thanh niên nam nữ hát ví đối đáp, giao duyên để tán tỉnh nhau khi đi làm, đi chơi. Hát đối đáp trong công việc, đối đáp trong các buổi giao lưu, kết bạn và ngay cả trong cuộc sống hàng ngày ở các gia đình. 

Du khách về với đất Mường Bi (Hòa Bình), đặc biệt là ở khu vực Mường Khến (Tân Lạc, Hòa Bình). Nếu có thời gian ghé lại bản Mường, cùng giao lưu bên bếp lửa, chuyền nhau ché rượu cần mà nghe thiếu nữ Mường ví điệu mời bày tỏ “Mấy khi nước cặp được bờ, để sông ngừng chảy cho mình gặp em…” thì ắt hẳn nghe rồi sẽ khó đành lòng mà xa được nơi này.

(Vũ Thanh-ANTĐ)

Thứ Ba, 22 tháng 12, 2015

TRANG PHỤC NGƯỜI MƯỜNG

Nghệ thuật dân gian trong trang phục truyền thống của người Mường

Nghệ thuật dân gian trong trang phục truyền thống của người Mường

Trang phục dân tộc Mường mang nhiều nét đặc trưng riêng biệt.

So với một số dân tộc khác, trang phục của người Mường không có màu sắc rực rỡ mà đơn giản hơn nhiều, song cũng có những nét rất đặc trưng. Nam giới thường mặc áo ngắn hoặc áo dài, màu chàm, cài khuy, quần dài, rộng, thắt lưng quấn quanh cạp, đầu búi, quấn khăn dài, đầu khăn giắt sang hai bên, sau này cũng có dùng khăn xếp quấn như của người Kinh dưới xuôi.

Nghệ thuật dân gian trong trang phục truyền thống của người Mường

Trang phục của phụ nữ thường là áo màu trắng hay màu sáng ngắn chấm đến eo để chỗ cho chiếc cạp váy chiếm vị trí quan trọng trong trang phục. Váy của phụ nữ Mường thường dùng vải thâm hay nhuộm chàm đen hình ống. Nổi bật nhất của chiếc váy là cái cạp váy đã trở thành một sản phẩm nghệ thuật đặc sắc nhất của người Mường. Trang phục của một phụ nữ Mường gồm có:

- Cái mũ: thực ra là cái khăn đội đầu màu trắng
- Cái yếm: giống hệt như yếm của người Kinh tuy có phần ngắn hơn, màu trắng.
- Cái áo: tương tự như áo cánh của phụ nữ Kinh, tuy ngắn hơn nhiều, cũng xẻ giữa nhưng không cúc, không khuy, màu trắng.
- Cái váy: “ống” vải đen bó thân thể người mặc từ nách xuống gần mắt cá chân. Phần cạp váy đè lên nửa dưới yếm và góp phần che ngực thêm kín.
- Cái tênh: là chiếc khăn dài thường nhuộm lục, thít quanh váy, ngang tầm hông.
- Cái áo chùng: tương tự như áo dài của phụ nữ Thái, xẻ giữa nhưng không cúc, không khuy, màu trắng, có khi màu đen.
- Cái khăn thắt áo: là chiếc khăn sồi không nhuộm thắt quanh áo chùng ngang tầm hông để khép hai tà áo lại, hai múi khăn buông ngắn đăng đối hai bên.
Nghệ thuật dân gian trong trang phục truyền thống của người Mường
Nghệ thuật dân gian trong trang phục truyền thống của người Mường

Chính cái cạp váy trong trang phục của phụ nữ Mường đã tạo ra nét đặc trưng riêng của người Mường về sắc thái thẩm mỹ trong trang phục. Trang trí của hoa văn nghệ thuật trên cạp váy tạo ra sự tương phản với màu đen và màu trắng trên áo, váy của người phụ nữ Mường, làm trang phục của họ nổi lên trước quang cảnh của núi rừng. Sự nổi trội ấy lại không chói lọi, rực rỡ như màu đỏ của người Dao, người Cao Lan mà lại hết sức khiêm tốn, nền nã, kín đáo. Giữa hai thái cực của màu trắng và màu đen trong cái mênh mông của màu xanh núi rừng thì hoa văn cạp váy như những đốm sáng, như “những chấm phá tôn được cả đen lẫn trắng uốn lại cái nhạt nhẽo vô tình hay cố ý của nền áo- váy. Tác dụng mà cạp váy phát huy cũng kín đáo không kém bối cảnh trên đó nó phát huy tác dụng, dù kín đáo theo một nghĩa khác. Đây không phải là kết quả vận động của riêng bản thân màu sắc…”
CẠP VÁY MƯỜNG

Cạp váy có thể tách thành bộ phận riêng, nên những khi không cần thiết hoặc chưa dùng đến, nó có thể được cất riêng. Vì thế, một cạp váy có thể sử dụng cho nhiều váy, thậm chí cho nhiều người ở các thế hệ khác nhau. So với toàn bộ váy thì cạp váy chiếm tỷ lệ khoảng 30%, lại được thắt từ sát nách xuống đến hông, do đó nó vừa có ý nghĩa trang trí vừa có ý nghĩa che kín thân thể ở mức độ cần thiết.

Điểm nổi bật nhất của cạp váy Mường là những họa tiết trang trí hoa văn trên bề mặt của nó. Với một diện tích không lớn, cạp váy chứa đựng một số lượng hoa văn khá phong phú về cả hình thức và kiểu loại. Cạp váy được chia làm ba phần gọi là: rang trên, rang dưới và cao. Thứ tự ba mảng này được tính từ miệng váy trở xuống, tức là phần trên cùng được gọi là rang trên. Hoa văn của mỗi phần là cái để phân biệt chúng với nhau, trong đó hoa văn của rang trên và hoa văn cao thuần túy là hoa văn hình học, riêng phần cao đôi khi không có hoa văn, còn phần rang trên thì luôn là hoa văn hình học. Phần rang dưới chủ yếu là hoa văn động vật với rất nhiều mô típ khác nhau. Các nhà nghiên cứu đã thống kê có 37 mô típ hoa văn cạp váy, trong đó có 25 mô típ hoa văn động vật. Bởi là một sản phẩm đặc sắc của trang phục phụ nữ nên người Mường dồn toàn bộ tâm trí và tài năng của mình vào đây. Đây cũng chính là chỗ để các cô gái Mường trổ tài của mình trước cộng đồng, thể hiện ở kỹ thuật dệt hoa văn cạp váy. Kỹ thuật đó được bắt đầu từ khung cửi đặc biệt dùng để dệt cạp váy với nhiều “co” (go), nhiều mẫu hoa văn hơn các khung cửi khác. Cách dệt cũng phức tạp hơn và đòi hỏi người dệt cũng phải khéo léo hơn. Kỹ thuật đó còn được thể hiện ở việc nhuộm sợi của người phụ nữ Mường để tạo ra những màu sắc đẹp, bền cho hoa văn trên cạp váy của mình. Tuy mảng màu truyền thống của người Mường cũng chỉ là những màu khá đơn giản như: trắng, đen, đỏ, vàng và xanh, song việc tìm ra những chất liệu nhuộm, kỹ thuật nhuộm cũng đòi hỏi một tài năng nhất định của người thợ mới có thể làm ra được các màu ưng ý.

Tài năng của người dệt còn thể hiện ở việc bố cục các mô típ hoa văn ở từng rang sao cho hợp lý, việc sắp xếp vị trí của từng loại hình động vật, hình trang trí ở rang dưới như thế nào cho đẹp mắt, cái nọ hỗ trợ làm nổi bật cái kia mà không phá vỡ bố cục chung… Tất cả những cái đó đòi hỏi đầu óc thẩm mỹ tinh tế và điêu luyện của người thợ dệt, để tạo ra được một sản phẩm có giá trị.

Cạp váy Mường trong bộ trang phục của người phụ nữ Mường vừa giản dị, kín đáo, không phô trương mà lại nền nã, hấp dẫn và không kém phần đặc sắc. Một điều đặc biệt là rất nhiều hoa văn trên cạp váy Mường cũng là các mô típ hoa văn phổ biến trên trống đồng Đông Sơn. Điều này cho thấy các hoa văn cạp váy Mường có giá trị cả về mặt nghệ thuật lẫn lịch sử, liên quan đến một thời kỳ rực rỡ của văn minh Việt Nam.
Nghệ thuật dân gian trong trang phục truyền thống của người Mường

Trong trang phục của người phụ nữ Mường, ngoài những nét đặc sắc của hoa văn cạp váy thì chiếc khăn trắng quấn trên đầu người phụ nữ tuy rất đơn giản nhưng cũng mang một ý nghĩa sâu sắc. Ngoài ý nghĩa thực dụng là để che cơ thể trước nhiệt độ, thời tiết và những bất trắc ở núi rừng, khăn quấ đầu còn có một ý nghĩa xã hội rất sâu xa gắn với truyền thuyết đầy lãng mạn về một mối tình giữa một chàng trai đất Mường nghèo tên là Khỏe với cô gái nhà lang xinh đẹp là Út Dô. Do khác biệt về thân thế, đôi trai tài gái sắc không lấy được nhau đã dẫn đến một mối tình tuyệt vọng. Nàng Út Dô đi theo tiếng gọi của tình yêu đã chết và biến thành những bông hoa clăng mọc đầy ven suối. Để tưởng nhớ mối tình ấy mà con gái Mường từ già đến trẻ đều lấy một mảnh vải nguyên gốc từ sợi bông đội lên đầu để nhớ thương họ, đồng thời màu trắng của khăn cũng như màu trắng của những bông clăng là biểu tượng cho sự chung thủy, trong trắng của người con gái Mường.

Thứ Hai, 21 tháng 12, 2015

NGƯỜI MƯỜNG

Người Mường, còn gọi là người Mol, Mual, Moi, Moi bi, Au tá, Ao tá, là một dân tộc sống ở khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam, tập trung đông nhất ở tỉnh Hòa Bình và các huyện miền núi tỉnh Thanh Hóa. Họ rất gần với người Kinh, một số nhà dân tộc học đưa ra giả thuyết người Mường về mặt sắc tộc chính là người Kinh nhưng vì cư trú ở miền núi nên họ ít chịu ảnh hưởng của người Trung Quốc. Dân số hiện nay là 914.600 người.


Dân số 
Theo kết quả điều tra của Tổng cục Thống kê công bố năm 1989, dân tộc Mường ở Việt Nam mới chỉ có 914.396 người nhưng 10 năm sau, tức năm 1999, vẫn theo kết quả điều tra dân số của Tổng cục Thống kê công bố, người Mường đã tăng lên 1.137.515 người, chỉ sau các dân tộc Kinh, Tày, Thái, Hoa, Khơme.

Tên gọi 
Không phải ngay từ buổi đầu lịch sử, dân tộc Mường đã có tộc danh như ngày nay. Và đương nhiên trước đây, người Mường cũng không dùng danh từ này làm tên gọi cho dân tộc mình. Theo Trần Từ (tức Nguyễn Đức Từ Chi), Mường là từ dùng để chỉ một vùng cư trú của đồng bào bao gồm nhiều làng. Mỗi vùng được đặt dưới sự cai quản của một nhà Lang. Qua sự tiếp xúc giao lưu giữa người Mường và người Kinh, người Kinh đã sử dụng từ Mường để gọi dân tộc này. Cho đến tận bây giờ, Người Mường vẫn từ gọi mình là mol, moăn như ở Hoà Bình, Mon, mwanl như ở Thanh Hoá. Còn ở Phú Thọ, đặc biệt là ở Thanh Sơn, nơi Người Mường tập trung đông đảo nhất cũng như Người Mường ở huyện Yên Lập và một số xã thuộc huyện Thanh Thuỷ đồng bào tự gọi mình là Mol, Monl. Mặc dù những từ này có biến âm hơi khác ở mỗi vùng, mỗi địa phương nhưng đều quan niệm giống nhau về mặt nghĩa. Tất cả những từ mà đồng bào dùng để chỉ dân tộc mình có nghĩa là người. Vì lẽ đó mà người Mường thường tự xưng mình là con Mol hoặc là con monl: con người. Còn từ Mường vốn là từ mương đồng bào dùng để chỉ nơi cư trú chứ không liên quan gì đến tộc danh ngày nay của mình. Mặc dù vậy cùng sự biến động của lịch sử cũng như quá trình giao lưu kinh tế, văn hoá với các dân tộc anh em khác cho đến nay “Mường” đã được đồng bào chấp nhận và coi đó là tộc danh của mình, và hiển nhiên, họ tự nhận mình là người Mường như ngày nay. Do đó, Mường đã trở thành tên gọi chính thức và duy nhất của tộc người này để phân biệt với các dân tộc khác. Tộc danh Mường đã được các tổ chức, thể chế, các nhà nghiên cứu và nhân dân dùng khi tìm hiểu, nghiên cứu gọi dân tộc này: Người Mường.

 

Nguồn gốc

Cũng như các dân tộc khác, để lý giải về nguồn gốc của dân tộc mình, dân gian Mường Thanh Sơn còn lưu giữ và truyền kể những huyền thoại về sự xuất hiện dân tộc mình. Mặc dù vậy, những truyền thuyết đó được lưu truyền chủ yếu dưới dạng các bản mo hát với dài ngắn khác nhau.

Chim Ây Cái Ứa
Thuở xưa, khi con người chưa xuất hiện, trời làm hạn hán, cây cối khô mà chết, rồi trời lại mưa. Một trận mưa to chưa từng thấy. Nước chảy thành suối thành sông. Đất lở bồi thành đồng bằng. Đá lăn chất đầy thành gò thành đống, thành đồi thành núi. Từ dưới đất mọc lên một cây si. Cây si lớn như thổi trở thành to lớn, cành lá che kín cả bầu trời. Cây si bị sâu đục ăn làm cho gãy cành dụng lá. Từ gốc cây si đẻ ra một đôi chim. Chim Ây là đực, Cái ứa là cái. Đôi chim rủ nhau bay lên cành câu si làm tổ. Cành si gãy. Chim bay lên cây đa làm tổ. Cây đa đổ. Chim Ây và Cái ứa lại rủ nhau bay lên núi đá lấy cỏ làm thành tổ Hang Hao. Cái ứa đẻ ra trăm ngàn quả trứng. Trứng chim nở ra thành muôn loài muôn vật. Còn lại một trăm cái trứng thì nở ra con người. Đó là người Mường và người Kinh.

Nàng Hươu Sao và chàng Cá Chép
Ngày xưa, có nàng tiên xinh đẹp tên là Hươu Sao. Một lần, nàng Hươu Sao ra suối uống nước tình cờ gặp chàng Cá Chép. Là chúa tể dưới nước. Hai người yêu nhau và Hươu Sao có mang. Năm ấy trời đại hạn, chàng Cá Chép phải trở về vùng nước sâu để Hươu Sao lại một mình. Đến ngày sinh nở, nàng đẻ ra một trăm người con: năm mươi người con trai và năm mươi người con gái. Chúng đói khát kêu khóc ầm ĩ. Thương con, nàng Hươu Sao đành phải gọi chồng đến để chia con. Năm mươi người con theo mẹ lên rừng và năm mươi người con theo cha ra vùng cửa sông. Chàng Cá Chép cùng các con lập ra dòng vua áo vàng ở xuôi. Đó là tổ tiên của người Kinh. Còn nàng Hươu Sao cùng các con ở lại rừng núi lập ra dòng vua áo chàm khai phá đất đai xây dựng cơ nghiệp. Đó là tổ tiên của Người Mường. Bên cạnh những truyền thuyết có tính chất phổ biến chung cho cả dân tộc thì ở Người Mường Thanh Sơn và cả ở huyện Yên Lập còn lưu truyền một số truyền thuyết khác nói lên sự có mặt của Người Mường trên mảnh đất cổ này.

Truyền thuyết lập mường Tất Thắng
Ở xã Tất Thắng, đồng bào truyền kể rằng: khi xưa, đất Thanh Sơn còn là một vùng hoang vu. Có ông bà nọ lập nghiệp ở đây đã sinh ra được bốn cô con gái. Bốn cô mang trang phục khác nhau nên được đặt tên là Bạch Hoa, Biến Hoa, Giắng Hoa, Đỏ Hoa. Các cô đã cùng cha mẹ mình sinh ra con cái, lập thành bản thành làng, lập nên ruộng đất, thành vùng mường Thanh Sơn đông đúc. Sau này chiến tranh Tản – Thục xảy ra, người Mường ở Tất Thắng đã rủ nhau chạy loạn đi khắp nơi trong huyện và chạy sang mạn Hoà Bình ngày nay sinh sống làm ăn. Cuộc chiến kết thúc, một số người ở Hoà Bình nhớ quê cha đất tổ đã trở về làm cho vùng mường Thanh Sơn thêm sầm uất.

Truyền thuyết về Đức thánh Tản Viên (thần núi Ba Vì)
Người Mường Thanh Sơn còn cho rằng Đức Thánh Tản Viên Sơn ( còn gọi là Sơn tinh) – Con rể vua Hùng thứ 18 – là người Mường Thanh Sơn. Truyền kể rằng, ở vùng mường Xuân đài, Khả Cửu ngày xưa có một cô gái con nhà Lang tên là Đinh Thị Đen (người Mường Thanh Sơn gọi là Đinh Thị Điên). Cô là người đen đủi xấu xí nhất trong gia đình dòng họ nên bị bố mẹ, anh chị em hắt hủi. Một lần vào rừng lấy củi, cô gái tủi thân ngồi khóc trên một tảng đá và ngủ thiếp đi. Từ đó cô có thai và đã bị nhà Lang hắt hủi đuổi đi. Cô đã lang thang lần đi đến vùng mường Tất Thắng. Dân ở đó thấy cô đói khát đã cho cô ăn uống. Từ Tất Thắng, cô lại đi tiếp đến động Lăng Xương (thuộc xã Trung Nghĩa huyện Thanh Thuỷ ngày nay) thì đẻ ra thần Tản Viên. Dân bản ở đây thương tình đã đóng cho cô một bè nứa và đưa hai mẹ con cô vượt sông Đà sang vùng Ba Vì (thuộc tỉnh Hà Tây ngày nay). Mẹ con bà Đinh Thị Đen được bà Ma Thị là chúa các động mường cưu mang nhận làm con nuôi. Khi Tản Viên lớn lên, thần được bà Ma Thị truyền cho quyền cai trị và bảo vệ các xứ mường. Thần đã lấy con gái vua Hùng thứ 18 tên là Ngọc Hoa làm vợ.

Truyền thuyết Đẻ Giang
Người Mường ở các xã Lai Đồng, Đồng Sơn, Thạch Kiệt còn lưu truyền truyền thuyết “Đẻ giang” như sau: ở đất mường Tồng (tên gọi cũ của Lai Động) có một cái hang gọi là hang Cơng Tiếng. Ở đó có con chim ưng đẻ ra một quả trứng. Quả trứng nở ra một con vứa (con ngài tằm). Con Vứa bay hết Mường này sang Mường nọ rồi đậu vào cây đa, cây sấu rồi bay tiếp lên núi đá trắng. Cũng từ đó bản Mường trở nên đông vui sầm uất. Người Mường biết làm nhà để ở và đẻ con cái, ra bố mẹ con giang. Bố mẹ con giang ra trước rồi tiếp theo đẻ ra được Buồng Nang Ráu, là cháu nàng Thăn, con của nàng Ún Mái. Nàng ún Mái lại đẻ ra dân ra bản, đẻ ra vợ chồng. Từ đó, Người Mường có quê quán, có nhà có cửa, có cơm ăn, rượu uống và vàng bạc. Họ mang giang đi hát khắp nơi. Từ đó các bản mo giang được truyền bá rộng rãi như sang mường Pi, mường Thàng (Hoà Bình) để những vùng mường này phát triển. Nhờ đó con giang được truyền và ăn sâu vào đời sống tinh thần của đồng bào.

Trên đây chỉ là một vài truyền thuyết tiêu biểu của người Mường Thanh Sơn giải thích về nguồn gốc dân tộc của mình. Mặc dù truyền thuyết mang tính hoang đường và đôi khi tản mạn nhưng lại là tư liệu quý. Người Mường quan niệm mình và người Kinh vốn cùng một cha mẹ sinh ra, cùng máu mủ dòng giống. Chính vì lẽ đó mà cho đến tận ngày nay, người Mường vẫn còn lưu truyền câu ca: “Ta với mình tuy hai mà một. Mình với ta tuy một thành hai”

Ngôn ngữ 
Tiếng Mường thuộc nhóm ngôn ngữ Việt-Mường, rất gần với tiếng Việt. Chẳng hạn bua là vua, pộ là bố, tat là đất, kloi là trời, vân vân.

Đặc điểm kinh tế 
Đồng bào Mường sống định canh định cư ở miền núi, nơi có nhiều đất sản xuất, gần đường giao thông, thuận tiện cho việc làm ăn. Người Mường làm ruộng từ lâu đời. Lúa nước là cây lương thực chủ yếu. Trước đây, đồng bào trồng lúa nếp nhiều hơn lúa tẻ và gạo nếp là lương thực ăn hàng ngày. Nguồn kinh tế phụ đáng kể của gia đình người Mường là khai thác lâm thổ sản như nấm hương, mộc nhĩ, sa nhân, cánh kiến, quế, mật ong, gỗ, tre, nứa, mây, song... Nghề thủ công tiêu biểu của người Mường là dệt vải, đan lát, ươm tơ. Nhiều phụ nữ Mường dệt thủ công với kỹ thuật khá tinh xảo.

Tổ chức cộng đồng 
Xưa kia, hình thái tổ chức xã hội đặc thù của người Mường là chế độ lang đạo, các dòng họ lang đạo (Đinh, Quách, Bạch, Hà) chia nhau cai quản các vùng. Đứng đầu mỗi mường có các lang cun, dưới lang cun có các lang xóm hoặc đạo xóm, cai quản một xóm.

Tín ngưỡng 
Người mường theo đạo phật, nhưng có sự khác biệt la mọi nghi lễ đều phải có chủ lễ là thầy mo chủ trì

Văn hóa

Cưới xin 
Tục cưới xin của người Mường gần giống như người Kinh (chạm ngõ, ăn hỏi, xin cưới và đón dâu). Khi trong nhà có người sinh nở, người Mường rào cầu thang chính bằng phên nứa. Khi trẻ em lớn khoảng một tuổi mới đặt tên.

Ma chay

xNgười chết tắt thở, con trai trưởng cầm dao nín thở chặt 3 nhát vào khung cửa sổ gian thờ, sau đó gia đình nổi chiêng phát tang. Thi hài người chết được liệm nhiều lớp vải và quần áo theo phong tục rồi để vào trong quan tài làm bằng thân cây khoét rỗng, bên ngoài phủ áo vẩy rồng bằng vải.

Tang lễ do thày mo chủ trì. Hình thức chịu tang của con cái trong nhà không khác so với người Kinh, tuy nhiên con dâu, cháu dâu chịu tang ông bà, cha mẹ còn có bộ trang phục riêng gọi là bộ quạt ma.

Khi người con trai trong gia đình ấy chống gậy tre thì gia đình ấy có bố chết, nếu chống gậy gỗ thì gia đình có mẹ mất.

Lễ hội
Đồng bào Mường có nhiều ngày hội quanh năm: hội xuống đồng (Khung mùa), hội cầu mưa (tháng 4), lễ rửa lá lúa (tháng 7, 8 âm lịch), lễ cơm mới...

Văn nghệ dân gian 
Kho tàng văn nghệ dân gian của người Mường khá phong phú, có các thể loại thơ dài, bài mo, truyện cổ, dân ca, ví đúm, tục ngữ. Người Mường còn có hát ru em, đồng dao, hát đập hoa, hát đố, hát trẻ con chơi... Cồng là nhạc cụ đặc sắc của đồng bào Mường, ngoài ra còn nhị, sáo trống, khèn lù. Người Mường ở Vĩnh Phúc và Phú Thọ còn dùng ống nứa gõ vào những tấm gỗ trên sàn nhà, tạo thành những âm thanh để thưởng thức gọi là "đâm đuống".

Nhà cửa

Ở khu vực Đông Nam Á, nhà sàn là loại hình phổ biến của nhiều dân tộc. Tại Việt Nam, cư trú trên nhà sàn là truyền thống của nhiều dân tộc như Giarai, Êđê, Tày, Thái, Mường. Đó là sự thích ứng tối đa với điều kiện sống. Người Mường cư trú trên những ngôi nhà sàn không biết từ bao đời nay. Mặc dầu vậy, nhà sàn của người Mường vẫn có nhiều điều đặc biệt khác với nhà sàn của các dân tộc khác.

Người Mường sống trong những ngôi nhà sàn truyền thống, địa bàn cư trú tập trung chủ yếu ở những dải đồng bằng thung lũng hẹp, doi đất ven sông, ngòi, dưới chân các dãy núi hay trên các đồi gò thấp. Làng bản mường sống tập chung thành từng chòm, từng xóm, ẩn khá kín dưới màu xanh của cây cối trồng quanh nhà. Các bản mường thường có khoảng từ 20 đến 30 nóc nhà, và nếu bản to thì có thể nhiều hơn nữa. Bản làng thường dựng nơi gần nguồn nước, gần đồng ruộng, thuận lợi cho lao động sản xuất. Tuy vậy, bản làng của người Mường ít khi lộ rõ để người ngoài dễ phát hiện vì được bao bọc bởi luỹ tre và cây ăn quả. Đường vào bản thường là những con đường mòn nhỏ quanh co tạo cảm giác dễ nhầm, dễ lạc. Và đối với người Mường, họ không coi trọng việc dựng nhà lập bản sao cho thuận tiện giao thông đi lại. Vì lẽ đó mà muốn vào bản làng hay nhà của người Mường thường phải băng qua con đường nhỏ nối làng với đường chính hoặc lội qua những con suối, ngòi.

Với người Mường nói chung, nhà là nơi diễn ra và chứng kiến những sự kiện như sinh, hôn, tử của một vòng đời. Từ đó, ngôi nhà không chỉ có ý nghĩa đối với gia đình mà còn mang ý nghĩa cộng đồng xã hội, không chỉ là nhu cầu về vật chất là để trú ngụ nắng mưa, ngủ nghỉ, mà còn đáp ứng nhu cầu tâm linh.

Người Mường không coi trọng nhiều đến dựng nhà theo hướng nào mà chỉ cốt thuận lợi cho đi lại cho lao động sản xuất. Từ dụng ý này mà làng bản của người Mường đều giống nhau ở chỗ lộn xộn, chồng chéo, không có sự thống nhất hay quy định chung về hướng nhà. Nhà dựng ở đồi gò thì lưng dựa vào đồi gò, cửa hướng ra khoảng không thung lũng, cánh đồng trước mặt. Nhà dựng ở ven sông thì mặt có thể hướng ra dòng sông hay hướng vào trong... Tất cả những cái tưởng chừng là “lộn xộn” đó lại tạo cho bản làng của người Mường Thanh Sơn cảm giác vừa vững vàng vừa cởi mở với những nét độc đáo riêng.

Nhà sàn của người Mường là kiểu kiến trúc cổ truyền. Việc dựng nhà sàn của đồng bào là kết quả của một quá trình dài đúc rút kinh nghiệm cư trú. Điều đó thể hiện ở bản mo nổi tiếng họ là “Te tấc te đác” (đẻ đất đẻ nước). Trong bản mo đồ sộ này có đoạn nói về sự ra đời của nhà sàn người Mường. Mo rằng: Khi người Mường sinh ra nhà chưa có nên phải sống trong các hang núi, hốc cây, họ phải đối mặt với nhiều thiên tai hiểm hoạ. Một hôm, ông Đá Cần (còn gọi là lang Cun Cần) bắt được một con rùa đen trong rừng đang định đem ra làm thịt. Rùa van xin Đá Cần tha chết và hứa nếu được thả thì rùa sẽ dạy cho ông cách làm nhà để ở, làm kho để lúa để thịt:

    Bốn chân tôi làm nên cột cái
    Nhìn sườn dài, sườn cụt mà xếp làm rui
    Nhìn qua đuôi làm trái
    Nhìn lại mặt mà làm cửa thang cửa sổ
    Nhìn vào xương sống làm đòn nóc dài dài
    Muốn làm mái thì trông vào mai
    Vào rừng mà lấy tranh, lấy nứa làm vách
    Lấy chạc vớt mà buộc kèo

Lần dựng thứ nhất, nhà đổ. Ông Đá Cần doạ làm thịt rùa. Rùa lại phải dặn lấy gỗ tốt mà làm cột làm kèo… Từ đó, người Mường biết làm nhà để ở.


Việc dựng nhà của người Mường đòi hỏi nhiều công đoạn, nhiều sức lực nên họ có tục giúp đỡ nhau. Người giúp gỗ, người giúp lạt, người giúp công, giúp sức. Trước kia, để nhận được sự giúp đỡ của dân làng, gia đình làm nhà phải chuẩn bị một lễ nhỏ mang đến nhà Lang để nhờ Lang báo cho mọi người trong bản làng biết. Mỗi gia đình sẽ cử một người đến giúp. Người ta phân công những công việc cụ thể cho mỗi thành viên đảm nhận như xẻ gỗ, đan nứa, pha tre, đan gianh cọ, lợp mái… Gia chủ làm nhà tuỳ vào điều kiện kinh tế mà nhận sự giúp đỡ khác nhau. Nhà khá giả thì mọi người giúp ít và ngược lại. Theo tục này, ở xã Xuân Đài có lệ khi một người làm nhà thì tuỳ vào khả năng mà giúp gỗ, lạt, nứa, lá, và mỗi nhà góp ba đến năm cân gạo nếp, hai chai rượu, một con gà… Lệ này ở mỗi xóm làng lại có những quy định khác nhau. Ở xã Tân Phú thì có lệ mỗi gia đình đưa cho gia chủ bốn trăm “phá” (tức là hai trăm cây nứa gập đôi). Nói chung, tục giúp nhau trong việc làm nhà của người Mường Thanh Sơn như đóng góp nguyên vật liệu, lương thực, thực phẩm và ngày công thể hiện sự quan tâm chung của cả bản làng, tinh thần tương thân tương ái, đoàn kết cộng đồng sâu sắc.

Trong quá trình dựng nhà của người Mường, thầy mo có vai trò tương đối quan trọng. Mở đầu việc dựng nhà, ông mo làm lễ cắm cọc vào nơi làm cầu thang. Sau đó, chủ nhà cày ba luống làm lệ trên nền làm nhà. Ông mo đi sau vảy nước vào những luống cày đó và khấn vía lúa. Người làm nhà chuẩn bị vài cụm lúa đã tuốt hết hạt chỉ còn cọng rơm ném ra xa rồi cầm đòn xóc đâm vào cụm lúa nâng lên. Mỗi lần nâng đòn xóc lên rồi lại để xuống và hát giang ý nói rằng “lúa đẹp, lúa nặng, lúa bay về nhà để cho no cho đủ…”. Ông mo nâng các cụm lúa lên trên tay rước đi vài vòng rồi giang mo “đẻ đất đẻ nước” đoạn nói về rùa dạy dân làm nhà. Tiếp theo ông mo vảy một thứ nước mà đồng bào cho đó là nước phép vào những hố chôn cột để xin thần linh cho gia chủ làm nhà mới.

Người Mường kiêng không để mấu của đòn tay quay xuống mặt sàn. Khi bắc đòn tay thì ngọn phải quay về gian cuối, gốc ở gian đầu nơi có cầu thang lên xuống. Gian này được gọi là gian gốc. Sào nhà gác lên thượng lương. Gốc sào cũng phải quay về gian gốc. Tre nứa dùng làm nhà phải không được cụt ngọn, không bị sâu hay bị đốt cháy dở. Gỗ làm nhà phải là loại gỗ chắc đảm bảo không mối mọt và thường là gỗ lim xanh, mài lái… Người Mường đặc biệt quan tâm đến những cây gỗ mọc ở núi đá như giống gỗ heo vì giống gỗ này chặt đốn thì mềm nhưng khi chôn xuống đất hàng trăm năm cũng không mục mại. Có nơi đồng bào còn kéo gỗ ra ngâm bùn tại ngòi, suối khoảng một hai năm mới vớt lên làm.

Những cây gỗ được chọn làm cột, sau khi lắp mộng, dựng khung, được chôn thẳng xuống những hố đã đào sẵn sâu khoảng 20 – 30 cm. Tục chôn cột nhà, ngoài dụng ý cho vững chắc khung nhà khi lợp mái, làm sàn, làm vách, còn có ý nghĩa tâm linh, thể hiện cho sự hoà hợp âm dương, một biến thể của tín ngưỡng phồn thực. Cho đến nay, đa số người Mường đã thay đổi tục chôn cột nhà bằng cách nâng cột lên mặt đất và kê lên những phiến đá chống mối mọt. Tuy nhiên cột nhà của người Mường Thanh Sơn không được gia công bào gọt nhiều như cột nhà của người Thái và người Mường ở Hoà Bình. Nếu cột nhà của người Thái Sơn La được xẻ, bào, đẽo cho vuông thành, thì cột nhà của người Mường Thanh Sơn chỉ bào lớp vỏ ngoài và để tròn.

Người Mường dùng con xỏ bằng tre, con then bằng gỗ, đinh kèo bằng gỗ… để đóng thay cho đinh sắt. Họ dùng lạt mây, giang hoặc tre bánh tẻ để buộc níu các ngoàm đẽo hoặc cột kèo. Khung nhà sàn của người Mường được dựng hoàn toàn bằng cách ghép mộng, đục đẽo mà thành. Đòn tay (tôn thảy) được đặt dọc mái nhà. Đòn tay cái có miếng tre kẹp chặt đòn tay vào đầu cột cái gọi là cái khoá kèo. Mái nhà lợp bằng lá cọ hoặc bằng cỏ gianh. Những cây nứa ngộ (loại nứa to và dày) vàng óng được lựa chọn kỹ để pha nan kẹp lá (như cái gắp dùng để kẹp cá nướng). Cứ như thế, những kẹp lá cọ được đưa lên mái buộc thẳng vào dui mè. Đây là cách lợp mái nhà theo tục truyền thống còn tồn tại phổ biến cho đến ngày nay. Tuy vậy ở một số nơi, người Mường đã thay cách lợp nhà. Lá cọ được đưa lên lợp vào dui mè mà không cần kẹp nữa. Mái nhà sàn khum khum hình mai rùa.

Nếu như nhà sàn của người Mường ở Hoà Bình phổ biến là bốn mái (hai mái đầu hồi và hai mái dài). Sàn nhà thấp giống sàn nhà của người Thái thì nhà sàn của người Mường ở Thanh Sơn cũng như nhà sàn Yên Lập chủ yếu là loại nhà sàn hai mái mà không có mái đầu hồi. Mái nhà dốc vảy gần sát sàn. Nhà của người Mường không có sàn thềm bên ngoài như của người Thái. Sàn nhà được làm bằng những cây bương già thẳng pha thành mảnh dát xuống lược bỏ mắt và cạnh sắc ghép liền với nhau, dùng lạt mây buộc chặt kết thành từng mảnh buộc chặt vào khung sàn. Những sàn nhà của nhà Lang trước đây thì thường dùng gỗ tốt như lim, gụ làm sàn nên qua thời gian sử dụng, những tấm ván lên nước bóng láng. Từ mặt đất lên sàn nhà thường cao khoảng 2 đến 2,5 m tuỳ từng nơi ẩm thấp hay cao ráo.

Công việc làm nhà tiến hành trong 4 – 5 ngày thì kết thúc. Ngày lợp mái, gia chủ tổ cúng tổ tiên, thổ công cai quản nơi mình ở. Lễ cúng gồm xôi nếp và thủ lợn bày ở khoảng đất trống chọn làm sàn. Nhà làm xong, gia đình lại tổ chức cúng tổ tiên, thổ công, ma rừng, ma cây, ma bến nước, ma đồi gò… thông báo rằng gia đình đã có một ngôi nhà mới, mời tổ tiên về chung vui với con cháu phù hộ gia đình may mắn.

Nhà của người Mường thường ba đến năm gian. Những gia đình đông con thì nhà lên đến bảy – mười hai gian. Những ngôi nhà như vậy ngày nay còn rất ít. Nhà dù ít hay nhiều gian đều có một sàn bên trái để bắc cầu thang và máng nước sinh hoạt. Gian đầu tiên từ cầu thang lên gọi là gian gốc. Đây là gian quy tụ mọi tính linh thiêng của ngôi nhà, là nơi xuất phát những tục lệ đối xử hành vi của con người với ngôi nhà.

Ở gian gốc có một cây cột to hơn các cây cột khác trong nhà gọi là cột gốc (còn gọi là cây cột chồ) ở đầu góc nhà gần cầu thang. Cây cột gốc được đồng bào trân trọng đặt khám (bàn thờ) thờ tổ tiên. Mọi người kể cả chủ hay khách đến nhà chơi đều không được bôi nhọ, dựa lưng, gác chân, buộc đồ vật hay treo quần áo vào cột này. Phần cột dưới sàn cũng không được buộc trâu bò hay dựng, treo công cụ lao động. Người Mường quan niệm nếu phạm phải những điều cấm trên thì bị coi là xúc phạm đến gia đình, tổ tiên và thần linh.

Gian nhà gốc chỉ dành riêng cho nam giới. Phụ nữ trong nhà không được ngồi nghỉ hoặc làm việc ở đây. Trong các ngày trọng đại như hôn lễ, ma chay thì chỉ nam giới có vai vế trong dòng họ được ngồi ăn uống.

Tại gian nhà linh thiêng này có một cửa sổ làm sát đến sàn nhà gọi là cửa sổ “voóng” linh thiêng, không ai được đưa vật gì hay chui qua. Cửa sổ voóng chỉ dành để đưa quan tài ra ngoài khi gia chủ có tang ma. Đối diện với cột chỗ ở gian gốc có một cột nhà tương đối quan trọng. Ở chân cột này, người Mường để vào cum lúa đã tuốt hết hạt. Đầu cột đội một cái giỏ thủng biểu hiện cho âm tính (đồng bào gọi là nường). Bên cạnh đó, người Mường treo một đoạn tre tước xơ một đầu cho bông lên biểu hiện cho dương tính (gọi là nõ). Điều này thể hiện đời sống tâm linh, nói lên sự hỗn hợp, cân bằng âm dương, sự ổn định và thuận hoà của cả gia đình.

Gian thứ hai của ngôi nhà (gian kế theo gian gốc) dành cho nam giới ngủ nghỉ. Gian giữa thường là gian để thóc và làm bếp. Lúa gặt ở ruộng nương về phơi khô khi chuyển lên nhà được để ở đây. Họ xếp lúa vào một cái quây như cái bồ thủng đáy đan bằng nứa hoặc giang để gần bếp. Bếp của người Mường là rất công phu. Khuôn bếp được làm bằng loại gỗ đặc biệt cứng, có đường viền xung quanh, đáy lót bằng bẹ chuối rồi rải bùn lên trên. Khi chuyển bếp mới, người Mường tìm một số loại cỏ thơm như cỏ mật phơi khô để vào bếp đốt lấy tro rồi mới bắc kiềng nấu nướng. Bếp thường đặt trên trục nhà nơi nóc dọi xuống. Có nhà bếp đặt gần cửa sổ để thông gió, tránh khói và hoả hoạn. Tuy vậy, việc đặt bếp ở cửa sổ ít được ưa chuộng hơn vì đồng bào quan niệm nếu đặt bếp gần cửa sổ thì hơi ẩm từ bếp toả ra ngôi nhà không đều. Nhà người Mường thường có hai bếp chuyên dụng. Một bếp để nấu nướng thức ăn, và phụ nữ, trẻ em trong gia đình ngồi sưởi. Một bếp nhỏ hơn đặt ở gian gốc dùng để cho đàn ông trong gia đình ngồi sưởi vào mùa đông và đun nước uống hàng ngày hoặc tiếp khách. Bếp này người phụ nữ trong gia đình ít khi được ngồi hoặc sử dụng, trừ phụ nữ cao tuổi như bà, cụ hay con gái út được yêu quý nhất.

Gian cuối cùng là nơi dành cho phụ nữ sinh hoạt có chạn bát, để đồ dùng gia đình, nơi sửa soạn cơm nước. Gian này được ngăn với các gian khác trong nhà bởi một tấm liếp. Đây cũng là nơi người phụ nữ thay quần áo và ngủ nghỉ. Đầu hồi nhà, người Mường để một cái cối đuống và một cối tròn. Cối đuống không chỉ dùng để giã thóc gạo mà còn là phương tiện để gia đình báo nhà có việc lớn như đám cưới mà tang ma. Bên cạnh đó, cối đuống còn là một nhạc cụ sử dụng để gõ những bản nhạc vui trong ngày lễ tết, hội hè với những bản đuống rộn ràng âm vang, người Mường gọi là “đâm đuống” hay “châm đuống”. Dưới sàn nhà, người Mường nuôi gà, trâu hoặc để cất các công cụ sản xuất như cày, cuốc, liềm, nong, nia… Nhà của người Mường thường chỉ có một cầu thang. Song những ngôi nhà dài từ 7 - 12 gian thì phải làm hai cầu thanh ở hai đầu nhà. Những nhà có hai cầu thang như vậy khá hiếm vì người Mường quan niệm đó là sự xui xẻo, kiêng kị, của nả sẽ không giữ được trong nhà “vào đầu này ra đầu kia”.

Trang phục

Người Mường có đặc trưng riêng về tạo hình và phong cách thẩm mỹ trên trang phục.

Trang phục nam Nam mặc áo cánh xẻ ngực, cổ tròn, cúc sừng vai, hai túi dưới hoặc thêm túi trên ngực trái. Đây là loại áo cánh ngắn phủ kín mông. Đầu cắt tóc ngắn hoặc quấn khăn trắng. Quần lá tọa ống rộng dùng khăn thắt giữa bụng còn gọi là khăn quần. Xưa có tục để tóc dài búi tóc. Trong lễ hội dùng áo lụa tím hoặc tơ vàng, khăn màu tím than, ngoài khoác đôi áo chúng đen dài tới gối, cái cúc nách và sườn phải.

Trang phục nữ Áo mặc thường ngày có tên là áo pắn (áo ngắn). Đây là loại áo cánh ngắn, xẻ ngực, thân ngắn hơn so với áo cánh người Kinh, ống tay dài, áo màu nâu hoặc trắng (về sau có thêm các màu khác không phải loại vải cổ truyền). Bên trong là loại áo báng, cùng với đầu váy nổi lên giữa hai vạt áo ngắn. Đầu thường đội khăn trắng, xanh với phong cách không cầu kỳ như một số tộc người khác. Váy là loại váy kín màu đen. Toàn bộ phận được trang trí là đầu váy và cạp váy, khi mặc mảng hoa văn nổi lên giữa trung tâm cơ thể. Đây là một phong cách trang trí và thể hiện ít gặp ở các tộc khác trong nhóm ngôn ngữ và khu vực láng giềng (trừ nhóm Thái Mai Châu, Hòa Bình do ảnh hưởng văn hóa Mường mà mặc thường ngày tương tự như họ). Nhóm Mường Thanh Hóa có loại áo ngắn chui đầu, gấu lượn, khi mặc cho vào trong cạp váy và cao lên đến ngực. Phần trang trí hoa văn trên cạp váy gồm các bộ phận: rang trên, rang dưới, và cao. Trong các dịp lễ, Tết, họ mang chiếc áo dài xẻ ngực thường không cài khoác ngoài bộ trang phục thường nhật vừa mang tính trang trọng vừa phô được hoa văn cạp váy kín đáo bên trong. Nhóm mặc áo cánh ngắn xẻ ngực thường mang theo chiếc yếm bên trong. Về cơ bản giống yếm của phụ nữ Kinh nhưng ngắn hơn.

Hoạt động kinh tế truyền thống 
Nghề nông trồng lúa nước
Nghề nông trồng lúa nước được tiến hành ở những nơi có địa bàn bằng phẳng gần sông, ngòi. Đó là những mảng đồng bằng thung lũng hay những doi đất nhỏ hẹp dưới chân các dãy núi, ven các đồi gò thấp. Người Mường Thanh Sơn rất coi trọng cây lúa nếp, vì trong cuộc sống, bữa ăn truyền thống thì cơm nếp là nguồn lương thực chủ đạo. Bên cạnh đó, đồng bào còn trồng cả lúa tẻ và ngày càng phổ biến giống lúa này cho năng suất cao. Ngoài những thửa ruộng nước ở đồng bằng, đồng bào đa phần làm ruộng bậc thang tận dụng đất ở sườn, chân đồi gò. Loại ruộng này thường hẹp về chiều rộng nhưng lại dài như những cánh cung vòng quanh các đồi gò. Do ruộng bậc thanh làm ở trên cao, nguồn nước tưới tiêu khó khăn nên người Mường Thanh Sơn biết đào mương bắc máng, làm guồng xe nước lợi dụng dòng chảy của các con sông, suối, ngòi để đưa nước lên cao, cung cấp cho những thửa ruộng dài ngoằn nghèo. Ruộng bậc thang chủ yếu chỉ trồng được một vụ trong năm là vụ mùa. Các vụ khác đồng bào dùng để trồng ngô, khoai, rau… Những loại hoa màu này thích hợp với mùa khô ít nước. Một loại ruộng mà người Mường Thanh Sơn biết tận dụng khai phá để trồng lúa gọi là ruộng chằm, ruộng rộc. Đây là những thửa ruộng ở nơi đầm lầy dưới là bùn loãng, nước còn ở mặt trên cùng cỏ dại mọc thành tầng, thành lớp. Ruộng chằm – rộc thường rất sâu, đến thắt lưng thậm chí còn đến ngực. Do đó, ruộng loại này thường rất khó khăn trong canh tác vì không thể cày bừa dễ dàng như ruộng bậc thanh hay ruộng nước ở đồng bằng. Để thuận lợi làm ruộng cũng như thu hoạch, đồng bào thường phải chặt chuối, tre làm thành bè để bám hoặc gối lên làm cỏ, cấy hay gặt. Tuy vậy, do điều kiện không có nhiều diện tích thuận lợi cho canh tác nông nghiệp thì những loại ruộng chằm ruộng rộc cũng chiếm một vị trí khá quan trọng trong cuộc sống của người Mường.

Nương rẫy
Bên cạnh những thửa ruộng nước, người Mường Thanh Sơn còn đốt nương làm rẫy với hình thức lao động lạc hậu kiểu chọc lỗ tra hạt. Đồng bào có kinh nghiệm quý trong việc chọn đất làm nương rẫy. Họ chọn những mảng rừng có giang, nứa mọc dày, trồng mùn màu mỡ hay những vạt đất đen ven đồi núi. Khi chọn đất, đồng bào thường chặt một cây nứa hoặc cây gỗ vát nhọn đâm xuống đất. Nếu đâm được sâu thì điều đó chứng tỏ tầng mùn dày. Một kinh nghiệm nữa là xem đất màu gì, nếu đất dính vo trên tay thấy mềm dẻo, bóng như pha mỡ là đất tốt. Chọn được mảng rừng đồi ưng ý, người Mường Thanh Sơn tiến hành chặt khoanh vùng để phân giới không cho người khác lấy mất. Đồng bào đốt mảng rừng này để lấy mùn và tiện lợi cho việc dọn nương. Công việc gieo trồng tiến hành vào khoảng tháng 3- tháng 4 khi bắt đầu xuất hiện những cơn mưa đầu tiên. Người Mường Thanh Sơn trồng lúa nương không bằng cày cuốc mà bằng cách lấy một đoạn cây to bằng cổ tay vót nhọn một đầu dùng để đâm hố tra hạt. Gieo giống xong, họ chặt ngọn nứa, cành cây nhỏ để quét lớp mùn bề mặt lấp các hố lại. Việc gieo trồng lúa nương tương đối đơn giản nhưng lại đòi hỏi nhiều công sức, đặc biệt là làm cỏ cũng như trông nom không để chim thú phá hoại. Trong làm nương rẫy, người Mường Thanh Sơn đặc biệt có ý thức hạn chế hoả hoạn cháy rừng tràn lan. Điều này bắt nguồn từ quan niệm truyền thống “vạn vật hữu linh”. Theo đồng bào, rừng núi, cây cối, dòng sông, suối… cũng có linh hồn, do thần linh hoặc ma quỷ cai quản. Cho nên, họ tránh làm nương rẫy ở những vạt rừng, cây cổ thụ coi là linh thiêng- nơi ngự trị của thần rừng, thần cây mặc cho đất đai ở đó có màu mỡ tơi xốp đến đâu. Từ quan niệm đó mà trong lao động sản xuất của người Mường nói chung, người Mường Thanh Sơn nói riêng có nhiều tục lệ lễ nghi nông nghiệp như tục rước vía lúa, lễ cầu mùa, lễ mừng cơm mới cho đến tục đóng cửa rừng và mở cửa rừng … kèm theo lệ cấm kiêng kị mang tính chất siêu nhiên linh thiêng.

Một số nghề phụ khác
Cùng với nghề nông trồng lúa (lúa nương và lúa nước) làm chính, người Mường Thanh Sơn còn tăng gia sản xuất với những hoạt động kinh tế phụ gia đình, từ chăn nuôi, làm vườn, dệt vải, đan lát.. đến săn bắn và hái lượm. Cần phải nói rằng mặc dù những hoạt động này không phải là lao động sản xuất chính nhằm đảm bảo cuộc sống của người Mường Thanh Sơn nhưng những nghề phụ này lại đóng vai trò tương đối quan trọng trong việc cung cấp nhu yếu phẩm trong đời sống hàng ngày của họ.

Chăn nuôi
Những đàn gia súc, gia cầm thường được đồng bào nuôi thành bầy đàn thả dông trong rừng. Người Mường Thanh Sơn nuôi gia súc chủ yếu là trâu, bò ngoài cung cấp thực phẩm trong những ngày hội trọng đại còn dùng làm sức kéo trong lao động sản xuất . Đối với đồng bào, trâu bò có vị trí đặc biệt trong đời sống thường ngày vì đối với họ chúng là cả tài sản, cơ nghiệp, phản ánh tiềm lực kinh tế từng nhà trong bản và bản này với bản khác. Trâu bò chăn thành bầy đàn trong rừng lâu ngày đôi khi đem đến những điều ngạc nhiên thú vị về số lượng tăng giảm do sự sinh nở của chúng. Bên cạnh đó, người Mường Thanh Sơn còn nuôi lợn, gà để lấy thịt trứng. Chúng cũng được đồng bào nuôi thả thành bầy. Người Mường Thanh Sơn không có thói quen làm chuồng trại riêng cho gia súc, gia cầm. Họ thắt buộc những con trâu bò dùng để cày bừa dưới gầm sàn và làm chuồng trại cho gia cầm. Riêng đối với lợn, họ không mấy khi nhốt dưới sàn nhà mà được làm chuồng ở xa nhà, xa nguồn nước. Người Mường Thanh Sơn còn biết tận dụng ao hồ, sông ngòi để nuôi thả cá. Tuy vậy do địa bàn cư trú bán trung du và miền núi nên ao hồ ở nơi người Mường ở xuất hiện ít. Họ chủ yếu dựa vào đánh bắt cá, tôm tự nhiên ở sông, suối và các chi lưu của nó. công cụ dùng để đánh bắt chủ yếu là lưới, đó, đăng, chũm. Song có lẽ kiểu đánh bắt cá truyền thống của người Mường Thanh Sơn là dùng một thứ lá có độc gọi là lá cơi giã nhuyễn dải xuống một khúc suối ngòi đề làm cho cá tép say nổi lên mặt nước rồi bắt đem về.

Nghề vườn
Người Mường nói chung và người Mường Thanh Sơn nói riêng không chú ý lắm đến hiệu quả kinh tế vườn đem lại. Vườn của người Mường Thanh Sơn trồng đủ các loại cây như cau, mít, bưởi, chuối, khế, chanh, trầu, tre, bương, chuối… Có thể nói, ngoài các hình thức lao động kiếm sống phụ khác, mảnh vườn trở nên gắn bó thân thiết với đồng bào như một phần của cuộc sống. Với người Mường Thanh Sơn, hầu như nhà nào cũng có mảnh vườn nhỏ đủ để trồng cây quanh nhà, mỗi thứ một ít để phục vụ cho gia đình theo kiểu mùa nào thức ấy. Phụ nữ trong gia đình rất chăm lo đến các loại cây trồng trong vườn. Đôi khi những người đàn ông cũng rất thích thú với mảnh vườn quanh nhà của mình. Họ quyết định các giống cây trồng và quan tâm đến chúng. Tuy vậy, vườn của người Mường Thanh Sơn chủ yếu vẫn là loại vườn tạp. Song ngày nay, những cây trồng trong vườn dần được đồng bào lưu ý đến giá trị kinh tế. Họ trồng các giống cây cho năng xuất và hiệu quả kinh tế cao như nhãn, vải hoặc tranh, quýt để bán ra thị trường. Chính vì lẽ đó, người Mường Thanh Sơn ngày càng chú ý cải tạo mảnh vườn nhỏ bé của mình. Ngoài vườn nhà, người Mường Thanh Sơn còn tận dụng cả những vạt đất nhỏ ven bờ suối, ngòi để dễ tưới nước chăm bón. Họ trồng các loại rau, củ, quả như khoai, cà, bí, cải để cải thiện bữa cơm vốn đơn giản của mình.


Nghề thủ công gia đình
Người Mường Thanh Sơn đặc biệt khéo tay trong việc đan lát các vật dụng dùng trong gia đình từ nguyên liệu là tre, nứa và giang, mây như đan vỏ dao dùng để đi rừng, rổ, rá, thúng, nia, mâm, ớp, giỏ… Trong các nghề thủ công truyền thống của đồng bào đầu tiên phải kể đến là nghề dệt vải. Trong mỗi gia đình Mường Thanh Sơn đều có các khung cửi dùng để dệt vải bông, vải lanh để phục vụ may mặc cho các thành viên. Công việc trồng bông và dệt vải chủ yếu do nữ giới đảm nhận. Tuy nhiên, nghề dệt vải ở đồng bào chưa mang nhiều yếu tố hàng hoá. Họ chủ yếu sản xuất lúc nông nhàn mà chưa giành thời gian đáng kể cho nó. Trong vùng Mường Thanh Sơn, các xã nổi tiếng về dệt vải đẹp phải kể đến các xã như Minh Đài, Xuân Đài, Lai Đồng, Tất Thắng, Cự Đồng… Nguyên liệu dùng để dệt vải ngoài bông, lanh còn có tơ tằm. Nghề trồng dâu, sắn nuôi tằm tương đối phổ biến trong mỗi gia đình. Bên cạnh đó, nghề mộc cũng tương đối phát triển. Hầu như ở bản làng nào của người Mường đều có đội mộc riêng của mình để phục vụ trong xây dựng nhà cửa, đình miếu hoặc làm hậu sự cho lễ tang… Đàn ông Mường rất khéo tay trong nghề này. Họ làm ra những sản phẩm tương đối độc đáo như bao dao, làm cung, nỏ, đồ thổi xôi từ gỗ và các vật dụng khác phục vụ cho cuộc sống.

Khai thác nguồn lợi từ thiên nhiên

Săn bắn và hái lượm là hoạt động kinh tế phụ gắn bó với cuộc sống thường ngày của người Mường Thanh Sơn. Nguồn rau rừng như rau tầu bay, rau rớn, rau vi, đắng cảy, măng giang, măng nứa… được khai thác một cách hợp lý để có thể cung cấp lâu dài. Các cây củ cho bột như củ nâu, củ mài, củ vớn … chỉ được người Mường Thanh Sơn khai thác và những năm đói kém, mất mùa. Việc thu hái rau rừng thường được thực hiện cùng với các công việc khác như lấy củi, đi nương rẫy hoặc lấy rau lợn… Họ tranh thủ làm việc này sau khi đã hoàn tất các công việc khác mà theo họ là quan trọng hơn. Hoạt động săn bắn chim thú, bổ sung cho bữa ăn là công việc thường xuyên và là đặc quyền của người đàn ông Mường. Ngoài ra, săn bắn còn xuất phát từ nhu cầu của việc bảo vệ nương rẫy khỏi sự phá hoại của chim thú cũng như việc mất mát các con vật nuôi. Trong gia đình người Mường, người đàn ông thường có những chiếc nỏ súng cho riêng mình. Họ rất tự hào và chăm sóc chu đáo cho dụng cụ mà họ cho rằng thể hiện nam tính cũng như vai trò của mình trong gia đình. Con trai Mường ngay từ nhỏ đã được ông, cha cho theo trong mỗi lần đi săn, làm bẫy thú nên khi lớn lên rất thạo việc săn bắn. Người Mường biết làm nhiều loại bẫy thú với những kiểu dáng khác nhau để bẫy những con thú lớn, thú nhỏ và chim. Trong các loại bẫy của người Mường Thanh Sơn, thông dụng nhất là bẫy đâm, bẫy lao và bẫy sập. Loại bẫy này dùng để bẫy các con thú lớn như hươu, nai, gấu hoặc lợn rừng. Còn các loại bẫy nhỏ như “ngọ đánh”, “ngọ cắp”, “ngọ rô” dùng để bắt các con thú nhỏ như gà rừng, chim, sóc… được đặt quanh nương rẫy để bảo vệ hoa màu. Đặc biệt, những sản phẩm người Mường Thanh Sơn thu từ rừng không chỉ đủ dùng trong gia đình mà còn được dùng để trao đổi với các lái buôn từ miền xuôi như măng, mộc nhĩ, nấm, trầm hương, sa nhân, cánh kiến, các loại gỗ quý như đinh, lim, táu, lát, xửa, kháo trắng, kháo vàng, treo, chò… và các loại dược liệu quý như đẳng sâm, khúc khắc, hoài sơn… Người Mường đổi những sản phẩm từ khai thác rừng để lấy những vật dụng dùng trong gia đình như muối, dầu thắp, kim chỉ, kiềng, bát địa, xoong nồi, dao, cuốc, gương lược. Bên cạnh đó, hàng năm, đồng bào còn bán cho các lái thương một số lượng lớn trâu bò. Hoạt động buôn bán ngày càng len lỏi vào tận các bản mường xa, từng bước tạo nên mối quan hệ giữa miền xuôi và miền ngược, giữa người Mường, người Kinh và các dân tộc khác, góp phần vào giao lưu văn hoá - kinh tế giữa các tộc người gần gũi nhau.
Trần Nga (Theo CEMA)