Giới thiệu về tôi

Ảnh của tôi
Buôn Ma Thuột, Tây Nguyên, Vietnam

Thứ Năm, 28 tháng 6, 2018

Ban mê xưa... NHÀ THỜ C.H.P.I

Ban mê xưa... Nghe đến đồn điền cao su, cà phê C.H.P.I của Pháp... đó là Công ty cao nguyên Đông Dương (compagnie des hauts plateaux indochinois - c.h.p.i).
NHÀ THỜ C.H.P.I
Khoảng đầu thập niên 30 của thế kỷ trước, nhằm phát triển và mở rộng các đồn điền Cà phê và Cao su, người Pháp đã chiêu mộ nhân công từ khắp các miền đất nước lên Tây Nguyên, nhất là vùng Ban Mê Thuột, một khu vực có đất đai màu mỡ, rộng lớn, thuận lợi cho việc trồng Cà phê và Cao su trong các đồn điền của họ. Ngoài việc lo cho có việc làm ổn định các chủ đồn điền còn quan tâm đến tinh thần, đời sống tôn giáo của công nhân. Vì vậy, họ đã xây dựng nhà thờ Công giáo và Tin lành cho các Kitô hữu, chùa chiền cho các Phật tử, trong đó có nhà thờ của Giáo xứ Dũng Lạc ngày nay.
Ban đầu nhà thờ có tên là CHPI (Compagnie des Hauts-Plateaux Indochinois). Sau đó Đức Cố Giám Mục tiên khởi Giáo phận Banmêthuột - Đức Cha Phêrô Nguyễn Huy Mai đổi tên thành nhà thờ “Ban Mê Thuột Ngoại Thành”.
Sau biến cố 1975, việc sinh hoạt tôn giáo bình thường của giáo dân bị gián đoạn, ngăn cản… nhưng giáo dân vẫn một lòng trung thành với Chúa và Giáo hội, cố gắng giữ lấy ngôi nhà thờ bé nhỏ nhưng rất đỗi thân thương của họ.
Thường vào chiều Chúa nhật có Cha Anrê Lê Trần Bảo ở Toà Giám Mục đến dâng thánh lễ cho giáo dân, nhưng sau đó bị gián đoạn. Một thời gian sau, thỉnh thoảng Nhà nước cho phép Cha quản xứ Giáo xứ Phú Long là Cha An tôn Đỗ Văn Tài đến dâng thánh lễ vào chiều thứ Năm và Chúa nhật nhưng rồi lại bị gián đoạn.
Khoảng năm 1976 - 1977, Nhà nước mượn khu tĩnh tâm của các linh mục Giáo phận Ban Mê Thuột, thuộc khu vực nhà thờ Ban Mê Thuột Ngoại Thành làm cơ quan “Sở Địa Chính”, có thời hạn trao trả lại. Trong khi chờ đợi Sở Địa Chính hoàn trả, khuôn viên nhà thờ bị bó hẹp, chỉ còn lại ngôi nhà thờ; thêm vào đó, dân lấn chiếm đất càng gần vào khu vực chung quanh Thánh Đường, khiến cho việc đi lại khó khăn, mất vệ sinh và mỹ quan.
...
Giáo xứ đã kiên trì đề nghị Nhà nước trao trả lại toàn bộ khu Tĩnh Tâm và phần đất chung quanh nhà thờ. Tuy nhiên, phải đợi hơn 10 năm sau, nguyện vọng chính đáng đó mới được đáp ứng. Trong khi chờ đợi trao trả lại đất, Cha quản xứ đã tu sửa, cơi nới dần dần nhà thờ trên phần đất nhỏ bé còn lại, làm đường khoanh vùng để quản lý… lúc đó đầy những khó khăn và phức tạp...
Sau khi Nhà nước trả lại phần đất đã mượn, một lần nữa Giáo xứ bắt tay vào việc tiếp nhận phần đất và khắc phục hậu quả của gần 20 năm Nhà nước mượn ...
Sau 20 năm làm quản xứ Giáo xứ Dũng Lạc, ngày 13 tháng 12 năm 2011, Cha Gioan Bùi Quang Đạo được cử đi nhận nhiệm sở mới là Giáo xứ Châu Sơn, và ngày 12 tháng 12 năm 2011, Cha Antôn Vũ Thanh Lịch, nguyên quản xứ Giáo xứ Châu Sơn, được Bề Trên đổi về làm quản xứ Giáo xứ Dũng Lạc.
Sau khi ổn định nơi Giáo xứ mới nhận, Cha Antôn đã bắt tay ngay vào việc làm thủ tục xin phép xây nhà thờ mới...
...
(Trích : "Thánh lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng Nhà thờ Dũng Lạc" trên nguồn gpbanmethuot)

Thứ Ba, 26 tháng 6, 2018

TRƯỜNG TIỂU HỌC LỄ VĂN (Gx PHÚ LONG-BMT)

Tôi nhớ những ngày thơ ấu... Như là cơn gió đã xa mất rồi....
TRƯỜNG TIỂU HỌC LỄ VĂN (Gx PHÚ LONG-BMT)
* Địa giới Giáo xứ Phú Long:
Giáo xứ Phú Long khi thành lập đã có 3 Giáo họ: Giáo họ Lộ Đức (nay vẫn là Giáo họ Lộ Đức)
Giáo họ Công Binh (nay không còn)
Giáo họ Hòa Bình (nay là Giáo xứ)
...
Vào ngày 20/07/1968 Cha Antôn Phạm Quang Tạo được bài sai chuyển đến xứ Phú Long nhận nhiệm sở mới.
- Về cơ sở vật chất:
- Xây 1 trường tiểu học (gọi tư thục Lễ Văn).
...
- Mở trường dạy các em từ lớp 1 đến lớp 5 do Cha làm hiệu trưởng.
...
(Theo nguồn http://gpbanmethuot.com/hat-chi…/giao-xu-phu-long-40944.html).
Một đoạn hồi ký của Nguyễn Thị Hồng Trang, cựu học sinh Trường Tiểu học Lễ Văn :
Năm 1972 là năm bước chân nhỏ bé của tôi - một học sinh mười tuổi vừa hết bậc Tiểu học, tôi bước vào trường Tổng Hợp Ban Mê Thuột. Nhà tôi ở rất xa, mãi tận cây số 5. Lúc ấy, vào mùa thi Tốt nghiệp Tiểu học xong chuẩn bị thi tuyển chuyển cấp, tôi còn rất bé bỏng và quen đi học trường gần. Còn trường xa làm sao tôi đi học được vì bước chân tôi nhỏ bé, vì hoàn cảnh không có phương tiện cá nhân, kể cả chiếc xe đạp. Chỉ một mình mẹ tôi lo buôn bán nuôi ba chị em tôi thì không thể có thời gian để đưa đón con đi học xa, nên tôi không tự tin để đi thi tuyển, tôi đã vò giấy báo thi (may mà không xé bỏ), nhưng đến ngày đi thi, lòng tôi lại náo nức thôi thúc tôi dự thi. Tôi lục tìm lại Giấy báo thi, vuốt thẳng nếp nhăn sau bao ngày nằm im trong ống đựng viết. Tôi đi thi lòng hân hoan lạ...
Kết quả, vào trường công Trung học Tổng hợp Ban Mê Thuột, lớp Năm của tôi có mình tôi đậu , các bạn khác học nhiều trường khác như Bán công, ... Một kết quả thật bất ngờ cho tôi và cho trường Tiểu học Lễ Văn lúc ấy, nên cha Tạo là linh mục của Giáo xứ đã thưởng cho tôi một xấp vải xoa Pháp màu xanh để may áo dài, trong khi Mẹ tôi chỉ có thể sắm cho tôi chiếc áo bằng vải Cater. Cho đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ số báo danh 1.116 của tôi và người bạn thân nhất là Lê Thị Dung...
Chiếc áo dài xanh của cha Tạo cho tôi đã gắn bó với tôi suốt quãng đời học sinh Tổng Hợp mãi cho đến khi nó không còn vừa sau này lên cấp III, tôi lại sửa chiếc áo dài ấy thành chiếc áo xanh ngắn cổ trụ và tôi mặc hoài, mặc đến nỗi các bạn gọi tôi là "cô bé áo xanh". Có lẽ vì nó đẹp, vải bền và thời của tôi ít có nhiều áo để chưng diện.
Thế rồi, bước chân nhỏ bé của tôi không quản ngại đường xa, có khi được đi nhờ xe (...) , có khi tôi lội bộ một ngày mười cây số lượt đi, lượt về đến trường suốt những năm tháng dài để theo đuổi chuyện học hành. Giờ nghĩ lại sao mà giỏi thế, đường đi học vừa xa, dài lại dốc chứ không bằng phẳng.
...
Nguyễn Thị Hồng Trang
(Trích đoạn trong "KÝ ỨC VỀ NGÔI TRƯỜNG THÂN YÊU" của Hong Trang Nguyen Thi đăng trên Kỷ yếu Nắng Ấm Sân Trường)

Thứ Hai, 25 tháng 6, 2018

Ban mê xưa... TỊNH XÁ LỘC UYỂN

Ban mê xưa... Trên đường vào Châu Sơn...
TỊNH XÁ LỘC UYỂN
Tịnh xá Lộc Uyển tọa lạc tại số 84 – Phạm Ngũ Lão – TP. BMT, cách trung tâm Thành phố 1Km ...
Tịnh xá được thành lập năm 1968 do ĐĐ. Thích Giác Xuân khai sơn, đến năm 1973 thì giao lại cho ĐĐ. Thích Giác Tuệ trụ trì cho đến nay.
Năm 1968, Tịnh xá được khởi công xây dựng.
Đến năm 2000, để đáp ứng nhu cầu tu học của Phật tử và việc Hoằng Dương Chánh Pháp, ngôi Tịnh xá một lần nữa được khởi công xây dựng với quy mô rộng lớn, khang trang hơn, nhưng do kinh phí không đủ và trượt giá về vật liệu cũng như nhân công nên tới nay vẫn chưa hoàn thành.
Nội thất Chánh Điện thờ phụng theo truyền thống của hệ phái Khất sĩ Việt Nam và một số bức hành phi, câu đối.
--- o0o ---
(Theo Ban Văn Hoá & Thông Tin Truyền Thô​ng Phật Giáo Tỉnh Dak Lak)

NHỮNG THÁNG NGÀY ÊM ÁI TUỔI THƠ (tiếp theo) *Vương Hữu Thái

Trường Tiểu học La San Lam Sơn Ban Mê Thuột...
NHỮNG THÁNG NGÀY ÊM ÁI TUỔI THƠ (tiếp theo)
*Vương Hữu Thái
...
...
Cùng năm ấy những chiếc xe HonDa Dame, thường gọi là kiểu C50 màu đỏ hay xanh lá cây bắt đầu xuất hiện trên đường phố Ban Mê cũng tạo cho tôi những ngạc nhiên háo hức, khác xa với các kiểu xe trước đó như MobyLette, VeloSolex…hay lịch lãm như Vespa, LamBretta của Ý. Mỗi khi chiếc HonDa chạy ngang là bọn trẻ chúng tôi và cả người lớn thường ngoái cổ nhìn theo , thậm chí nếu cho lên xe chạy thử cũng ngượng ngạo vì không quen sử dụng đạp chân. Hồi ấy người ta bàn tán chắc xe Nhật xài mau hư chứ không bền như Âu Châu …nhưng rồi khi HonDa đàn ông 66, 67 kiểu SS50 tay lái ngắn ngủn xuất hiện, với tốc độ nhanh hơn máy mạnh hơn, người ta đã tin tưởng ở xe Nhật, thời đó thanh niên tuổi đôi mươi mà được chạy xe Dame được kể là hãnh diện lắm rồi, còn học sinh trung học chỉ ao ước chiếc xe đạp đời mới là quá đủ…Quãng thời gian ấy chiếc máy chụp hình để ngang tầm mắt bắt đầu xuất hiện, thay cho chiếc máy cồng kềnh khi chụp phải đặt ngang thắt lưng quần rồi cúi đầu xuống mà chỉnh sửa tọa độ trước khi bấm máy…lứa tuổi tôi xem đó như cái gì cao siêu lắm và không biết kế tiếp sẽ là phát minh nào nữa ?…trong lúc đó những chiếc xe “ thổ mộ” đậu ở cuối đường AmaTrangLong chở khách đã dần dần vắng bóng khiến tôi nhớ lại những lần cùng với mấy đứa bạn trong lớp ra cái bến xe còn hôi nặc mùi phân ngựa để nhìn ngắm mấy chú “tuấn mã” tràn đầy sinh lực đang nhởn nhơ nhai cỏ…hay những lần tôi theo Mẹ ngồi phía sau thùng xe ngựa bằng gỗ đi về cổng số 1, số 2.Thời đó “thổ mộ” là xe ngựa chở khách có 2 càng bằng gỗ do một con ngựa kéo. Tôi thich nhất bác tài hay còn gọi là bác Xà Ích điều khiển chiếc xe thật điệu nghệ với cái roi da dài quất trên lưng ngựa, trong khi chú ngựa bị che đi một phần cặp mắt chỉ cho nó nhìn thấy phía trước từ hai ba mét,mục đích là để cho ngựa khỏi bị phân tầm mà chạy lạc hướng dễ gây tai nạn chỗ đông người. Khi hai bánh xe chế tạo bằng gỗ bắt đầu lăn tôi cảm thấy có những âm điệu lạ tai như là tiếng lộc cộc vó ngựa giòn giã nện xuống dường, tiếng khua lộc xộc của cây xí ( thanh thép giữa trục bánh xe) ,tiếng lục lạc leng keng ngân vang trên cổ ngựa, thỉnh thoảng lại nghe tiếng cốc keng rời rạc từ cái chuông xe và cuối cùng là tiếng hý dài của chú ngựa…Thật là lối xưa xe ngựa hồn quê cũ, sau này có Frère trong giờ học kể chuyện tại sao gọi là chiếc xe thổ mộ,là vì xe có mui cong nhỏ trông như gò mả. Lại có người cho rằng nó bắt đầu từ tên xe là “ thảo mã ” lâu ngày đọc lái ra thành “ thổ mộ”…sau này tôi còn hiểu thêm kiểu xe ngựa ở cái xứ Ban Mê cũng gần giống như ở vùng Lái Thiêu, lục tỉnh…nhưng hình ảnh này chỉ còn trong ký ức.
Thế hệ học sinh thời tôi luôn nhớ đến Frère Hiệu Trưởng Salomon Minh vì tính cách đạo đức, nhiệt thành trong việc chăm lo giáo dục. Cuối tuần vào sáng thứ bảy là toàn trường xếp hàng ngay ngắn để nghe Frère giảng giải bài Phúc Âm Chủ Nhật sắp đến, cạnh đó có tấm bảng đen lớn vẽ minh họa hình Chúa GiêSu hoặc các Tông đồ liên quan đến bài Phúc Âm. Sau đó cả trường đọc 10 kinh, đáng chú ỳ là Frère giơ cao các ngón tay để theo dõi kinh đọc. Đây là chủ ý của Frère giúp học sinh cần lưu tâm đến mặt đạo đức cụ thể sau một tuần học hành, cho dù vẫn nhiều học sinh ngoại đạo theo học tại trường. Tôi còn nhớ hình như là năm1966 hay 1967 gì đó ???...trường LaSan Ban Mê Thuột có cử vài đại diện học sinh về LaSan TaBerd Sài Gòn tham dự Đại hội Học Sinh LaSan , đây cũng là niềm vinh dự vì lần đầu tiên LaSan Ban Mê Thuột, một nơi xa cách về địa lý và sự di chuyển cũng cách trở, lại được về một trường được xem như trung tâm lớn tham dự, vì đã lâu quá tôi không nhớ rõ, nhưng hình như là các đàn anh tham dự đã kể bằng tai nghe mắt thấy về trường Taberd, nơi đào tạo nhiều thế hệ học sinh với phương pháp giáo dục đặc biệt và duy nhất trong hệ thống LaSan, cũng khiến chúng tôi thêm niềm ước ao sẽ có một ngày được đặt chân đến thăm , nhưng rất tiếc vẫn là giấc mơ xa vời trong hoàn cảnh bấy giờ…
Đến năm sau trường tôi lại xây dựng đài Đức Mẹ giữa khuôn viên vườn hoa, có bốn lối đi nhỏ chung quanh. Lễ làm phép và khánh thành được tổ chức long trọng vì chuẩn bị từ trước cả tháng, ngày đó Đức Cha Phêrô đến làm phép và cũng là lần đầu tiên đến thăm trường kể từ khi nhậm chức Giám Mục Giáo phận, tôi đã vinh dự được sắp xếp làm dàn chào để đón vị Cha chung từ ngoài cổng trường và hôm đó có đồng ca bản Thánh Ca bằng tiếng LaTinh có tên hình như là Chào mừng thì phải ??? tôi chỉ còn nhớ vài câu như là vi vạt in lê te mùm/vi vạt in lê te múm…sau đó bong bóng được thả lên từng chùm và cả trường diễn hành qua khán đài nhỏ có Đức cha hiện diện cùng nhiều vị khách, kế tiếp là đồng diễn thể dục của các anh lớp 5 ,đó cũng là sự kiện đáng nhớ của LaSan Lam Sơn trước khi Frère Hiệu trưởng SoLomon Minh đổi đi nơi khác, tôi nhớ mãi hình dáng Frère mập mạp nhưng hơi lùn, khuôn mặt nhân hậu với cặp kính trắng luôn ẩn chứa một vẻ nào đó thánh thiện…
Trường tôi cũng có bước phát triển khi Frère Vân Xuyên về đây, khoảng đất trống mà trẻ em hay đá bóng được xây thành một sân bóng chuyền kiên cố, mà ngày đó hay gọi là sân baskert, với hai cột rổ cao được xem là sân khá nhất các trường trong tỉnh, nên thường được mượn để tổ chức các giải bóng chuyền học sinh. Tôi nhớ một Frère nữa là Ephrem Trần Ngọc Tú (nếu tôi không lầm thì sau này làm Tổng Linh Hoạt LaSan Taberd)mỗi đầu tuần thường nhắn nhủ học sinh với cái micro (tương tự như micro không dây bây giờ) nhưng hồi đó vẫn kèm một đoạn dây ngắn để tiếp sóng,như thế cũng là tối tân lắm rồi… hình như là năm 1969 gì đó Frère đã hướng dẫn một số học sinh trường tôi lên trung học LaSan Đồi dự Đại hội toàn trường LaSan Ban Mê Thuột , trong đó có phần diễn hành, đồng diễn thể dục, cắm trại, thi hội họa bích báo…chúng tôi phải mặc chiếc áo thun vàng ngắn tay có thêu hai chữ “ LASAN ” và khi đi ngang khán đài có quan khách đã hô vang khẩu hiệu “LASAN - HIÊN NGANG” một cách dũng mãnh, nhờ thế đã giúp học sinh thưở đó dù chưa khôn lớn hẳn cũng nuôi một hoài bão là lên trường LaSan Đồi học tiếp sau khi học ở Lam Sơn. Những sự kiện tưởng chừng như bình thường, nhưng đã khiến hầu hết học sinh luôn đặt niềm tin và trong tâm trạng náo nức…theo tôi hiểu phần lớn cũng nhờ sự dẫn dắt, điều khiển thật tuyệt vời của vị huynh trưởng là Frère ColomBan Đào-Hiệu trưởng Trung Học LaSan Đồi(trong thời kỳ trước năm 1969)bởi vì lúc đó tuy có cơ sở riêng biệt, nhưng LaSan Lam Sơn vẫn nằm trong sự điều hành chung của LaSan Đồi, như lời ví von là trường Mẹ và trường Con, tuy hai mà một tuy một mà hai.
Thời kỳ đó thế hệ đàn anh tại trường mẹ, cụ thể là lớp Đệ Tam, Đệ Nhị [8] luôn là đầu tàu trong các sinh hoạt văn hóa thể thao, kể cả khi phải thi đấu các giải ở cấp toàn tỉnh luôn đoạt thành tích cao,và là niềm tự hào cho học sinh chúng tôi suốt thời kỳ đó. Dù thời gian đã quá lâu, nhưng tôi vẫn nhớ khí thế như ngọn lửa khi các anh biểu diễn thể dục với tiết mục cột tháp, tức là từng tốp vòng tròn 10 người leo lên vai nhau thành 5 tầng …trong tiếng vỗ tay của nhiều học sinh trường khác (hình như tại sân vận động),ngoài ra khi tham dự ở hầu hết các tiết mục biểu diễn văn nghệ, võ thuật, trò chơi lớn với mục đi tìm kho báu( mật thư)…luôn luôn các anh đoạt giải nào đó, xứng đáng thể hiện thế hệ LaSan trưởng thành trước khi rời mái trường để bước sang cuộc hành trình tương lai khác. Đáng nhớ nhất là anh Vũ Đình Kỳ, lớp Đệ Nhị tướng mạo to con, ăn nói mạnh bạo,chơi đá banh và sinh hoạt rất sôi nổi được các Frère tin cẩn trao phó nhiều việc…lại được nhiều lớp dưới kính nể, về sau anh vào quân ngũ và khi tôi lên LaSan Đồi thì anh là Trưởng Ban Liên Lạc cựu Học sinh LaSan.Tôi nhớ một dịp nọ trở lại trường cũ ,anh được các Frère mời kể chuyện cho chúng tôi nghe về truyền thống, anh vẫn oang oang như ngày nào kể về thành tích ngày tháng cũ và khuyên nhủ chúng tôi phải tiến lên phía trước…
Năm 1969,phi thuyển Apollo đổ bộ nguyệt cầu đã làm nức lòng thế hệ học trò, các Frere và thầy cô kể cho cả trường nghe sự kiện có một không hai này,trí óc chúng tôi tưởng tượng sẽ có ngày nước Việt chế tạo được phi thuyền và phi hành gia cũng người Việt, ngày đó còn rất xa nên học trò phải chuyên cần học hành để điều ước đó thành hiện thực, trong khí thế đó thì ngày Trung Thu Frere tập hát sôi nổi thằng cuội yêu chị hằng nga, nói dối ông bà lên sống mặt trăng( ố tang tình tang ố tang tình tình)/ kể từ khi cuội ra đi, làng xóm không ngờ cũng nhớ cuội ghê (ố tang tình tang ố tang tình tình)… hòa với tiếng trống điệu lân trong buổi liên hoan nhẹ ở trường ban ngày, thế hệ tôi luôn thuộc nằm lòng bài tết trung thu đốt đèn đi chơi, em đốt đèn đi khắp phố phường, lòng vui sướng với đèn trong tay em múa ca dưới ánh trăng rằm,tùng tùng tùng…
Năm ấy tôi chơi thân với bạn Lê Thanh Hoàng, nhà ở đầu đường Phạm Phú Quốc, là cháu Cha Phaolô Lê Thanh Thiên – quản lý Chủng Viện Lê Bảo Tịnh trong thời kỳ mới thành lập. Tôi hay ăn cơm nhà nó và cuối tuần theo nó lên chiếc xe nhỏ màu xanh của Cha để đi cây số 5 nơi đang xây Tiểu Chủng Viện, nhờ những dịp như thế tôi được Cha Augustino Nguyễn Văn Tra - Giám Đốc tiên khởi, nhận làm con thiêng liêng để cuối năm tôi chuẩn bị thi vào lớp 6 Chủng Viện, lúc ấy tôi rất siêng năng sáng nào khoảng 4 giờ rưỡi khi hết giờ giới nghiêm cũng theo Mẹ tôi đi lễ tại tòa Giám Mục gần nhà., dù là thánh lễ riêng của Dòng Nữ Vương Hòa Bình và chủng sinh nhưng giáo dân ở ngoài vẫn được tham dự. Nhưng rất tiếc kỳ thi chủng sinh tôi đã rớt, vì hình thức tuyển khá gắt gao với hai điều kiện: học vấn và đạo đức( kể cả gia đình) , nếu trúng tuyển có thể tôi đã bước sang ngã rẽ hướng đi khác trong cuộc đời học sinh rồi!
Ngoài giờ học tôi và bạn Hoàng say mê tìm đọc truyện tranh rất nổi tiếng của Anh, Mỹ như LucKyLucKe với anh chàng cao bồi cỡi ngựa phóng như bay, có khuôn mặt xương xương dáng gầy gầy, chuyên đi trừ gian diệt bạo và là hiện thân anh hùng miền viễn tây. Rồi đến Aterix & Obelix mà hiện giờ tôi quên rất nhiều…ngoài ra có nhân vật TinTin, một thiếu niên đầu lưa thưa mấy sợi tóc nhưng thông minh nhanh nhẹn như con sóc, chuyên xông pha vào nơi khó nguy để lần ra các đầu mối trộm cướp,làm ăn phi pháp có hại cho dân lành…với tình tiết vô cùng hấp dẫn, có tính giáo dục lôi cuốn các độc giả nhí. Vài nhân vật nữa là Batman, Superman, tức là người dơi với tài biến hóa nhanh như chớp khi xuất hiện khiến kẻ gian ác phải khiếp sợ, rồi Xì Trum…Các truyện tranh này rất dài, thường thì các tờ báo lớn, ví dụ Văn Nghệ Tiền Phong chỉ đăng mỗi tuần có hai trang(cốt truyện và họa sỹ nước ngoài nên phải mua bản quyền) nên nhiều khi đang xem hào hứng bỗng chợt tức giận vì chạm phải dòng chữ “ kỳ sau tiếp”, như thế theo dõi kỹ cũng tốn công sức nhưng tôi và bạn Hoàng nghĩ kế rủ nhau đến nhà sách “Văn Hoa” lớn nhất thị xã, đối diện với nhà hàng DarLac trên đường Quang Trung, là nơi cứ khoảng 10 giờ sáng thì các loại báo phát hành ở SàiGòn được tập trung phân phối tại đây, do đó chúng tôi cũng len lỏi vào đọc ké, được cái truyện tranh đọc rất mau mà dễ hiểu, nhiều lúc ông chủ bề bộn công việc khi thấy bọn tôi cũng nhắc đứa nào ăn trộm thì coi chừng tao nhốt đó nghe! ở sân trường giờ ra chơi, tôi kể lại truyện đã đọc cho bạn bè trong lớp nghe, cứ thế bọn trẻ rỉ tai nhau…mà biết hết nội dung, chứ tiền đâu mà mua báo theo dõi dài dài. Cuối lớp Năm thằng Hoàng theo gia đình về SàiGòn và nó học ở DonBosco Gò Vấp. Tôi cũng nhớ người bạn nữa là Phạm Quốc Thành, học từ lớp Tư thường có xe hơi đưa rước vì con nhà quyền thế, có kiểu cách “chững chạc” khác hẳn với mấy đứa trong lớp vì quần áo tóc tai luôn tươm tất,xưng hô với bạn bè là tôi với bồ thay vì mày tao, tuy vậy cũng không tỏ ra kênh kiệu gì cả. Nhà nó ở cuối đường Hoàng Diệu với căn nhà gỗ một tầng trên khu đất rộng, giống như biệt thự. Tôi có nhiều kỷ niệm với nó, có lúc tự hỏi không biết bây giờ nó bôn ba ở phương nào nhưng mới đây nghe nói nó đang ở bên Đức…
Tôi còn nhớ một sự kiện khác là Tuần lễ Học Đường Công giáo được tổ chức sau khi Tân Giáo Phận được hình thành, đây là dịp để trường LaSan thi thố với các trường Công Giáo khác ở nhiều lãnh vực như : thi Giáo Lý, thể dục thể thao, cắm trại, hội chợ, trình diễn văn nghệ và sau cùng là lễ bế mạc tại sân vận động tỉnh…nhiều trường ở xa cũng có mặt như Quảng Đức, Phước Long…Không thể quên ngày sinh hoạt cắm trại tại Thác Nhà Đèn, lúc các cô cậu nhỏ tụ tập dưới rặng đồi thông để sinh hoạt chung, có một Cha Xứ đã kéo cây đàn Ácmonica tập bài Trả lại tôi là tuổi trẻ mênh mông chúng mình như lúa reo trên ruộng đồng, dù mưa tuôn dù bão cuốn bông lúa vàng cuồn cuộn gió đưa lên, dù bom rơi dù súng tới bông lúa ngời vượt lửa khói lên khơi…một bài ca chất chứa niềm tin với khát vọng tuổi trẻ bay cao bay xa như tiếng thông reo, tiếng thác đổ, cùng với nắng với gió…hay như nào về đây ta họp mặt cùng nhau, cuộc đời vui thú có lúc này thảnh thơi. Anh với tôi ta cùng sống vui cho trọn ngày, rồi mai này chúng ta lại gặp nhau…Các bài hát luôn thổn thức trái tim học sinh để rồi khi chia tay ra về, với từng đoàn đi bộ trên vai vác lều chõng, tốp khác đi xe đạp…mà lòng tiếc nuối một cái gì đó, nhưng thôi vì cuộc vui nào cũng sẽ trôi qua! Tôi vẫn nhớ nhiều học sinh LaSan không theo đạo cũng tích cực tham gia suốt một tuần lễ, và Lasan là trường có các hoạt động sôi nổi nhất.
Khi tôi lên lớp Năm thì có Frère Hiệu trưởng mới, hình như tên là Frère Vinh hay là Vital Quang tôi không nhớ rõ, có giọng nói rặt nam bộ, dáng cao lớn, khá hiền từ và Frère đã lập nơi chăn nuôi thỏ, dê …với sở thích yêu thiên nhiên cho đến tận năm 1975, . Tôi đã sống trong những giờ phút quan trọng trong buổi giao thời- chứng kiến sự chuyển giao giữa cái cũ và cái mới – trong thế giới không ngừng chuyển động và ảnh hưởng rất sâu sa đến thế hệ chúng tôi với nhiều cách khác nhau, tùy theo sự nhận thức và cảm nhận của từng người, và như thế mái trường là nơi hun đúc tâm trí đã định hướng cho chúng tôi phần nào trong lằn ranh phân định ấy.
Mùa hè niên khóa 1969-1970, tôi đã kết thúc thời gian theo học tại trường LaSan Lam sơn [9] để tiếp tục lên lớp 6 tại Trung Học LaSan Đồi. Đó là quãng thời gian đẹp nhất một đời người mà ngay lúc ấy tôi khó tưởng tượng ra nổi. Cám ơn các Frère. Cám ơn các thầy cô giáo như thầy Khương lớp ba, thầy Hoàng, rồi thầy…mà lâu quá tôi không nhớ nổi cái tên nhưng khuôn mặt ngày ấy tôi vẫn nhớ rõ, và với muôn vàn kỷ niệm thân thương không phai nhòa nhưng chứng tích và thứ tự từng sự việc lớn hoặc nhỏ, nhiều lúc tôi vẫn khó xác định nổi cái mốc thời gian.
LaSan Lam Sơn là dòng suối trong lành với hoa quả tươi xanh ở hai bên bờ, đã ân cần nuôi dưỡng tâm hồn và khai tâm cho tôi những ngày đầu đời.Và đáng yêu biết dường nào quãng thời gian đã cho tôi đi hết cuộc đời ấu thơ.
Tạm biệt những mùa hè mải miết chơi đá dế, chơi tạt lon, chơi đá cầu, thả diều…và chơi năm mười mười lăm hai mươi… và nhiều trò thời trẻ con khác, tạm biệt mái trường thân yêu, ngày mai tôi đi rồi đó nhé!.
VƯƠNG HỮU THÁI
(Trích trên nguồn http://www.lsvn.info/modules.php…)
Chú giải:
[1] Khi Giáo Phận Ban Mê Thuột được thành lập, thì khu đất thuộc về Dòng Nữ Vương hòa Bình.
[2] Khu đất này về sau giao cho các soeur Dòng Nữ Tử Bác Ái Vinh Sơn để lập Trường Trung Tiểu học Vinh Sơn, dạy từ Mẫu Giáo đến lớp 9 tọa lạc trên đường Phan Chu Trinh và Đại Lộ Tự Do.
[3] Về sau mở thêm cấp Tiểu Học vì số học sinh tăng mạnh.
[4] Đức cha Paul – Seitz sinh ngày 22/12/1906 tại Le Havre - Pháp, thụ phong Giám Mục Giáo Phận Kon Tum ngày 24/11/1960, hồi ấy bao gồm: KonTum, Pleiku, Ban Mê Thuột. Đức cha rời Việt Nam 15/8/1975 và qua đời 24/02/1984 tại Paris –Pháp.
[5] Trước 1970, bậc Tiểu Học ngoài Mẫu giáo gồm các lớp: Nhất , Nhì, Ba, Tư, Năm ( lớp1-2-3-4-5 bây giờ)
[6] LM. GiuSe Trịnh Chính Trực (1925-2011) được tấn phong Giám Mục phó ngày 15/8/1981,và là Giám Mục Chính Tòa Giáo Phận Ban Mê Thuột năm 1990 sau khi Đức Cha Phê rô Nguyễn Huy Mai qua đời 4/8/1990
[7] Sau đó trở thành Nhà thờ Chánh tòa.
[8] Trước 1970 Trung Học Đệ I Cấp gồm các lớp: Đệ Thất, Đệ lục, Đệ Ngũ, Đệ Tứ (Lớp 6-7-8-9 bây giờ) Đệ II Cấp gồm các lớp: Đệ Tam , Đệ Nhị. Đệ Nhất( 10-11-12 bây giờ)
[9] Ngừng hoạt động 10-03-1975, và hiện nay là Trường Bồi Dưỡng chính Trị

Thứ Bảy, 23 tháng 6, 2018

NHỮNG THÁNG NGÀY ÊM ÁI TUỔI THƠ *Vương Hữu Thái

Vang trong nỗi niềm nhung nhớ
Có ai đi thương về trường xưa?
NHỮNG THÁNG NGÀY ÊM ÁI TUỔI THƠ
*Vương Hữu Thái
Trong ký ức của tôi vẫn còn lưu dấu, dầu có một phần nhạt nhòa nào đó những ngày tháng tươi đẹp nhất một đời người, mà qua chuỗi thời gian dài đằng đẵng thấm thoát bấm đốt ngón tay cũng đã tròm trèm nửa thế kỷ thật sự xa rời, thật sự không còn bên mình. Như một giấc mơ tưởng chừng dài lắm, thế mà hóa ra lại ngắn ngủi đến không ngờ…Cũng kể từ ngày xa rời mái trường LaSan lưu dấu ấy, các Frère ấy, thầy cô và bạn bè ấy…sau những lúc nhọc nhằn, khắc khoải trong cuộc mưu sinh, bề bộn những lo toan tính toán tôi cũng dành lại giờ phút nhìn lại đời mình, trong đó hình ảnh thời tuổi thơ ngộ nghĩnh, chan hòa những yêu thương luôn ngự trị và thổn thức trong trái tim tôi. Qua cuộc hành trình không thể quên điểm xuất phát, cũng từ đấy bao giờ cũng là sự chộn rộn, náo nức, hy vọng. Với tôi điểm khơi nguồn hành trình tuổi thơ được xem như phút khai tâm đầu đời và nó luôn dẫn dắt tôi qua khoảnh khắc êm ả, trong veo như dòng suối.
Mái trường đầu tiên thời thơ ấu của tôi là Trường Tiểu Học LaSan Lam Sơn Ban Mê Thuột, tọa lạc trên mảnh đất rộng rãi mặt trước nhìn xa thấy thấp thoáng dãy nhà dài của các Soeur Dòng Bác Ái Vinh Sơn [1] bên hông phải là đường Cường Để (nay là đường Nguyễn Văn Trỗi) ,phía trước mặt trường là đường hẻm Hàm Nghi với mặt cắt ngang là đường Võ Tánh chạy dài đến vùng Châu Sơn, cánh hông trái trường là khu đất rừng hoang vu dốc lượn đến con suối Bà Hoàng, được ngăn cách bởi hàng rào kẽm gai ngăn không cho học sinh vượt qua, nên nhiều trái bóng tròn của lũ học trò nếu vô ý đã rơi xuống khu này khó tìm lại. Quang cảnh thập niên 60 ấy còn sơ khai đến nỗi tôi nhìn thấy từ xa từng đám Bằng Lăng cổ thụ cao sừng sững và trập trùng dãy núi xanh hiện lên tầm mắt, ngay trong sân trường có hàng phượng vỹ gốc lớn xum xuê, thường nở hoa đỏ rực mỗi độ hè đến và là nơi lũ trẻ hay tụ tập giờ ra chơi
Lúc đặt chân vào lớp Mẫu Giáo thì tôi nghe Bố nói đó là ngày “Khai Tâm” tức là đánh dấu ngày đầu tiên cắp sách đến trường để thầy cô dạy viết nét chữ đầu, soi rọi trí khôn mở đầu cho tương lai và cái tên gọi như thế trở nên quen thuộc với nhiều gia đình trong vùng. Bố tôi kể rằng sở dĩ chọn trường LaSan dầu trước đó tôi được chấp thuận vào một trường công lập cách nhà một cây số, vì nhà tôi có truyền thống đạo Công Giáo trước hồi di cư nên Bố Mẹ muốn tôi hấp thụ nền giáo dục KiTô ngay từ thưở ấu thời, mà cách tốt nhất là trao phó cho các Frère . Khi đó uy tín cùa Dòng LaSan đã được nhiều người trong vùng biết đến, kể cả người ngọai đạo.
Lần theo lịch sử , khu trường LaSan đầu tiên được tọa lạc trên mảnh đất của nhà thờ Thánh Tâm giữa trung tâm thị xã, kể từ khi 4 Frère đầu tiên đặt chân đến Ban mê thuột năm 1959,và niên khóa LaSan 1959-1960 khai giảng cấp bách ngay sau thời gian ngắn chuẩn bị. Chỉ vài năm sau các dãy nhà không đủ chỗ vì số học sinh theo học ngày càng tăng nhanh [2] nên từ tháng 06/1963 LaSan Ban Mê Thuột được tách thành 2 trường: Tiểu Học LaSan Lam Sơn và Trung Học LaSan Đồi [3]( hay còn gọi là LaSan Kbuôn)
Địa điểm LaSan Lam Sơn trước đây là một xưởng sủa chữa Cô Nhi Viện Térésa của các soeur được Đức Cha Paul –Seitz [4] trao lại cho các Frère Dòng LaSan lập trường học vì nhu cầu giáo dục trong vùng đang gia tăng mạnh mẽ. Còn LaSan Đồi được xây trên mảnh đất rộng hơn 60 hécta cách thị xã 3 km về hướng nam trên quốc lộ 14 giữa buôn Ale A và Ale B.
Theo lời anh tôi (cũng học LaSan từ nhỏ đến Tú Tài II) kể lại thì ngày “ Khai Tâm” vô cùng trọng đại vì cha hoặc mẹ, nếu quá bận bịu phải cử anh chị lớn đến tham dự ngày khai giảng bắt đầu lúc 8 giờ sáng tại khuôn viên nhà trường, thường thường ít phụ huynh vắng mặt và dẫn con đến sớm để làm quen với không khí nhà trường. Sau tiếng trống tùng tùng vang dội thì Frère Giám Học và các thầy cô hướng dẫn học sinh sắp hàng ngay ngắn thứ tự (trước đó đã có danh sách các lớp dán trên bảng đen trước văn phòng), đặc biệt lớp Mẫu Giáo thường khá vất vả nên phụ huynh phải túc trực ngay phía sau để tạo sự an tâm cho các em nhỏ , nhiều đứa đã khóc lóc vì bỡ ngỡ và Frère hay thầy cô sẽ đến dỗ dành, khuyên nhủ…cũng có thể vì cái “uy” của chiếc áo chùng đen và mảng trắng ở cổ Frère mà nhiều em đã nín thinh , phần tôi tuy có bỡ ngỡ nhưng không đến nỗi khóc lóc, và theo anh tôi kể thì tôi vinh hạnh được Frère Hiệu trưởng đến xoa đầu…
Sau khi chào cờ thì Frère Hiệu Trưởng có lời khái quát về việc học hành, kế tiếp cả trường đọc kinh Lạy Cha, Kính mừng, Sáng Danh như để nhắc nhở mọi người dâng lên Thiên Chúa tâm tình năm học mới. Frère Giám Học hướng dẫn các em trật tự vào lớp với thầy cô giáo đi kèm.Buổi đầu tiên chỉ để làm quen với trường lớp và vui chơi,cho đến khi tiếng trống tan học vang rền, người nhà đón con em mình về thì các Frère mới an tâm…Thế mới biết nỗi vất vả của cha mẹ, rồi các Frère trong ngày khai giảng biết diễn tả thế nào cho hết, gia đình tôi cũng tỏ vẻ an tâm trước sự lo lắng của các Frère và tôi sống trong những ngày đầu êm ả đó dưới mái gia đình và nhà trường.
Hồi ấy nhà tôi nằm ngay đầu đường Hàm Nghi (nay là đường Trần Phú), nên tôi chỉ đi bộ đến trường mất mươi phút, tôi quên không kể khu Lam sơn là khu đông đảo người lao động làm đủ mọi ngành nghề như buôn thúng bán bưng, làm thợ, làm nông…đa phần là bình dân. Lũ trẻ như tôi thường rủ nhau đi học sớm để còn la cà vui chơi, ngặt nỗi con đường đến trường là đường đất nên mùa nắng thì bụi bẩn mà mùa mưa thì mặt đường sình lầy những vũng nước do mấy chiếc xe “be” chở gỗ đi ngang, tụi trẻ phải đi nép hai bên mé đường nếu sơ ý hay nghịch ngợm rất dễ bị vấy bẩn bùn đất nhão nhẹt lên bộ đồng phục . Hồi ấy từ lớp Nhất đến lớp Ba [5] phải học ngày hai buổi, riêng năm lớp Ba có thêm môn Pháp Văn nhưng từ năm lớp Tư lại bãi bỏ môn này và chuyển sang học Anh Văn cũng như chương trình đổi lại học chỉ có một buổi sáng. Tôi nhớ cổng trường là nơi các chiếc xe đạp bán dạo đủ thứ hàng quà như kẹo kéo có quay số, bánh bò, cà rem…rồi các bà bán bánh mì, xôi…thường tụ tập bán cho học sinh, sau đó trong nhà trường cũng tổ chức một quầy bán hàng ăn sẵn vì ở ngoài thường mất vệ sinh. Tôi vẫn nhớ nhiều buổi sớm Mẹ tôi phải lục đục chiên cơm hoặc hâm nóng cơm nguội bằng củi cho chúng tôi lót dạ đi học, một phần để tiết kiệm quà sáng, trong lúc chúng tôi cố nuốt phần ăn nhiều khi thấy ngán ngẩm thì cùng lúc đó Bố tôi lại lặng lẽ dắt chiếc xe đạp lủi thủi đến công sở như thường lệ…
Năm học lớp Nhì tôi được các Frère dạy lớp Giáo Lý để sau đó chịu phép Rước Lễ Lần Đầu do một Linh Mục đến trường dâng thánh lễ. Gần kỳ hè 1967 tôi lại lãnh nhận Bí Tích Thêm Sức cũng do các Frère dạy Giáo Lý. Ngày đó khá đông học sinh LaSan Lam sơn tụ tập về nhà thờ Thánh Tâm cùng với các nhóm giáo lý khác để dự thánh lễ do Đức Cha Paul- Seitz( thường gọi là Đức cha Kim) ban phép trong buổi lễ trọng đại nhất cuộc đời thời thơ ấu của tôi, cho đến nay tôi không thể quên đã có 100 em sau nghi thức chịu phép đã được hôn nhẫn Đức Cha, một nghĩa cử cao đẹp thể hiện sự ưu ái của vị Cha chung với những người con bé dại. Chính ánh mắt nhân từ,nụ cười khả ái của Đức Cha cũng để lại ấn tượng không hề phôi phai về vị mục tử hết lòng lo cho đoàn chiên, ngoài mục vụ Đức Cha luôn quan tâm đến các nhu cầu bác ái xã hội, trong đó có giáo dục với biết bao khó khăn gian nan trải dài trên vùng đất rộng lớn xa xôi cách trở… đây là thánh lễ Thêm Sức cuối cùng của Đức Cha Kim tại Ban Mê Thuột.Tôi cũng luôn nhớ đến Cha GiuSe Trịnh Chính Trực, lúc đó là Chính Xứ nhà thờ Thánh Tâm tại thị xã [6] và trước đó là Cha GB.Trần Thanh Ngoạn đã quan tâm gầy dựng buổi đầu sơ khai cho sự có mặt của Dòng LaSan tại vùng đất cao nguyên . Tôi cũng mãi nhớ đến hình ảnh Frère Hiệu trưởng Salomon Minh (Lê Văn Hộ) đã luôn lo gìn giữ mặt đạo đức cho chúng tôi và thánh lễ hôm đó luôn có Frère bên cạnh như muốn nói lên tình nghĩa của vị sư huynh với thế hệ học trò, và nhờ thế mà hình ảnh của Frère đã theo chúng tôi đến hết cuộc đời, mãi mãi không bao giờ quên.
Lúc đó tôi cũng có nhiều kỷ niệm với một bạn thân cùng lớp là Ngô Hằng Tiến,được gọi là Tiến mập vì nó to con mập mạp híp cả mắt, nhà ở đầu đường Y Jut gần ngôi đền miếu thường tổ chức “lên đồng”, nên nó thường rủ tôi đến xem. Tôi còn nhớ hình ảnh người đồng cốt nhảy múa theo tiếng đờn cò kéo ò e rồi tiếng phèng phèng với khói nhang nghi ngút, nhưng tôi cũng không thích nghi lâu dài với hình ảnh này…nó giỏi Toán và thường hướng dẫn tôi những bài khó,nhưng niên khóa sau nó phải theo gia đình đi tỉnh khác…
Cũng trong năm 1967 đó, một sự kiện quan trọng khác đã đến trên vùng đất cao nguyên hùng vỹ, năm đó tôi học lớp Ba. Đó là ngày 22/08/1967 dưới sự dẫn dắt của Frère Hiệu trưởng,các học sinh LaSan đã tụ tập đến nhà thờ Thánh Tâm [7] để chào đón vị Giám mục tiên khởi của Giáo phận Ban Mê Thuột, được tách ra từ Giáo phận KonTum, đó là Đức cha Phêrô Nguyễn Huy Mai. Trước đó hai tháng trời tin vui này đã lan tỏa khắp các nơi trong tỉnh vì trước quyết định của Tòa Thánh Vatican, kể từ nay tân Giáo phận sẽ có bước phát triển mới trên con đường mục vụ, bởi số giáo dân đang gia tăng mạnh mẽ và việc truyền giáo trở nên cấp bách,trong đó có đồng bào dân tộc và các trường công giáo bước vào thời kỳ phát triển mới… Các Frère cũng có những chuẩn bị tinh thần để đón nhận sự kiện trọng đại này như giải thích cho học sinh biết thế nào là chức vụ Giám Mục, Giáo phận là gì ?...để chúng tôi không ngỡ ngàng và cùng hòa nhịp vui mừng chung với mọi người. Hôm đó chúng tôi mặc đồng phục xếp hàng theo sự sắp xếp của ban tổ chức, tôi còn nhớ cả một rừng người tham dự phá tan cái sự tĩnh lặng êm ả của xứ sở cao nguyên từ bấy lâu nay, và tạo nên một sự nô nức náo nhiệt chưa từng thấy. Khi đoàn xe mô tô từ phi trường tiến vào thị xã, những tiếng vỗ tay luôn vang dội không ngừng và chuông nhà thờ đổ từng hồi, nhất là khi vị tân Giám Mục về đến khán đài được dựng lên ở ngã Sáu, có sự hiện diện của các Giám Mục và quan khách khắp nơi…Dù được dặn dò kỹ lưỡng của các Frère, nhưng chúng tôi cũng không thể nào đứng mãi một chỗ trước cảnh vô cùng náo nhiệt ngày hôm đó, và nhớ mãi hình ảnh sự kiện long trọng này.
...
(Còn tiếp)
VƯƠNG HỮU THÁI
(Trích trên nguồn http://www.lsvn.info/modules.php…)
Chú giải:
[1] Khi Giáo Phận Ban Mê Thuột được thành lập, thì khu đất thuộc về Dòng Nữ Vương hòa Bình.
[2] Khu đất này về sau giao cho các soeur Dòng Nữ Tử Bác Ái Vinh Sơn để lập Trường Trung Tiểu học Vinh Sơn, dạy từ Mẫu Giáo đến lớp 9 tọa lạc trên đường Phan Chu Trinh và Đại Lộ Tự Do.
[3] Về sau mở thêm cấp Tiểu Học vì số học sinh tăng mạnh.
[4] Đức cha Paul – Seitz sinh ngày 22/12/1906 tại Le Havre - Pháp, thụ phong Giám Mục Giáo Phận Kon Tum ngày 24/11/1960, hồi ấy bao gồm: KonTum, Pleiku, Ban Mê Thuột. Đức cha rời Việt Nam 15/8/1975 và qua đời 24/02/1984 tại Paris –Pháp.
[5] Trước 1970, bậc Tiểu Học ngoài Mẫu giáo gồm các lớp: Nhất , Nhì, Ba, Tư, Năm ( lớp1-2-3-4-5 bây giờ)
[6] LM. GiuSe Trịnh Chính Trực (1925-2011) được tấn phong Giám Mục phó ngày 15/8/1981,và là Giám Mục Chính Tòa Giáo Phận Ban Mê Thuột năm 1990 sau khi Đức Cha Phê rô Nguyễn Huy Mai qua đời 4/8/1990
[7] Sau đó trở thành Nhà thờ Chánh tòa.
[8] Trước 1970 Trung Học Đệ I Cấp gồm các lớp: Đệ Thất, Đệ lục, Đệ Ngũ, Đệ Tứ (Lớp 6-7-8-9 bây giờ) Đệ II Cấp gồm các lớp: Đệ Tam , Đệ Nhị. Đệ Nhất( 10-11-12 bây giờ)
[9] Ngừng hoạt động 10-03-1975, và hiện nay là Trường Bồi Dưỡng chính Trị

Ban mê xưa...

Ban mê xưa... Nhìn ảnh có thể thấy ngay phòng tập Tea Kwon Do của võ sư Nguyễn Văn Bé ngày ấy!
SÂN VẬN ĐỘNG BMT (Năm 1969-1970)

Thứ Sáu, 22 tháng 6, 2018

Ban mê xưa... CÔ NHI VIỆN VINH SƠN

Ban mê xưa... một cơ sở trong công tác xã hội của Tu Hội Vinh Sơn thuộc giáo phận Ban Mê Thuột...(Bây giờ là trường Mầm Non Thắng Lợi, 17 Phan Bội Châu, tp BMT)
CÔ NHI VIỆN VINH SƠN
Kể từ năm 1953, các chị em Nữ Tử Bác Ái hiện diện tại Giáo phận Ban Mê Thuột với số chị em rất khiêm tốn. Cộng đoàn 3 chị tiên khởi tăng dần theo nhu cầu phục vụ. Tổng số các chị em Nữ Tử Bác Ái phục vụ tại Cộng đoàn Ad Gentes Ban Mê Thuột 99 chị, một số chị đã về với Chúa, một số chị cao niên đang sống tại nhà hưu dưỡng và một số chị em khác được chuyển tới những nơi khác để phục vụ...
Tình yêu Đức Kitô chịu đóng đinh làm sinh động và nung đốt trái tim người Nữ Tữ Bác Ái, thúc bách chị em chạy tới phục vụ mọi cảnh khốn cùng.
-Các Công tác xã hội:
Cô Nhi Viện:
. Thành lập: 01/05/1957, với tên gọi Cô Nhi Viện Vinh Sơn.
. Mục đích: Nuôi dưỡng giáo dục các em mồ côi hoặc mất cha, mất mẹ, gia đình bệnh hoạn tật nguyền…
...
...

HOA UẤT KIM HƯƠNG *Ghi chép của Giang Lân

Ngày xưa ở Ban mê, có quán cà phê trên đường Hai Bà Trưng được đặt tên một loài hoa...
HOA UẤT KIM HƯƠNG
*Ghi chép của Giang Lân
...
Uất kim hương có vẻ đẹp sang trọng và lịch sự. Hoa nổi hình kim hoặc hình chén. Bông hoa to mọng căng, giữa có chùm nhụy hoa cong cong gợi cảm. Hoa bọc sáu cánh chia làm hai hàng trong và ngoài. Hoa có nhiều màu sắc khác nhau, hương thơm ngào ngạt. Vẻ ngoài Uất kim hương hao hao giống Hoa sen, lại cũng tựa tựa hoa Mẫu đơn nữa. Nay thì Uất kim hương là hình ảnh tượng trưng cho đất nước Hà Lan. Là “tứ đại quốc bảo” của Hà Lan, bao gồm: cối xay gió, pho-ma, guốc gỗ và hoa Uất kim hương. Tuy nhiên nó còn được trồng nhiều ở Thổ Nhĩ Kỳ, Hung-ga-ry và Iran.
Thật ra quê hương của hoa Uất kim hương là ở Cao nguyên Tây Tạng – Trung Quốc, và tên gọi Uất kim hương là từ nơi ấy. Nay Tây Tạng vẫn còn sinh trưởng không ít loài hoa Uất kim hương hoang dã. Hơn 2000 năm trước, hoa Uất kim hương được truyền đến Thổ Nhĩ Kỳ từ vùng Trung Á. Tương truyền vào thế kỷ XVI, một vị sứ giả người Áo tại Thổ Nhĩ Kỳ nhìn thấy hoa Uất kim hương có sắc màu diễm lệ, bèn lấy một số cây mang về Vinara và trồng trong Cung đình Vinara. Một người Hà Lan lại lấy giống nó mang về Hà Lan. Sau khi người Hà Lan say mê trước vẻ đẹp diễm lệ, tao nhã, quý phái của hoa Uất kim hương, lập tức nó được nhân trồng quảng bá, được nổi tiếng khắp nước, và được đặt tên là hoa Tuy-líp. Hoa Tuy-líp trở thành loại hoa có giá trị rất cao...
Hoa Uất kim hương hay Tuy-líp cũng thế. Nguồn gốc và truyền thuyết về nó được dựng thành những câu chuyện ly kì và bí hiểm, được gắn với đặc trưng văn hóa của quốc gia đó để chứng minh rằng “Nó là của riêng ta!” Truyền thuyết đầu tiên về hoa Tuy-líp là truyện: “Tuy-líp – Cuộc chạy trốn bất thành”. Chuyện rằng: “Một lần đưa cơm cho cha, Tuy-líp – cô con gái của người chăn cừu, đã bị tên điền chủ bắt cóc đưa về làm thợ dệt thảm cho hắn. Cô bị nhốt trong một gian nhà tối om. Một mùa hạ tối tăm và tuyệt vọng trôi qua. Rồi một mùa thu buồn bã và một mùa đông lạnh lẽo cũng hết. Khi xuân đến, nỗi buồn nhớ cha mẹ, vườn nhà, núi non bỗng dày vò Tuy-líp khôn nguôi. Nàng quyết định bỏ trốn chứ không thể chết ở nơi đây. Một bữa nọ, kế hoạch bỏ trốn của nàng được các cô gái cùng cảnh ngộ ủng hộ. Vượt qua khung cửa sổ găm đầy mảnh thủy tinh, toàn thân nàng bị cứa rách đầy máu me. Tuy-líp chạy về phía đồi núi. Bị lộ. Tên điền chủ phi ngựa đuổi theo. Tuy-líp bị ngựa áp sát. “Không để bị bắt lại!” Nàng nghĩ, và quyết định quay đầu lao vào chân ngựa. Ngựa ngã. Điền chủ bị văng vào vách đá. Tuy-líp gượng dậy nhưng không còn đủ sức, nàng lảo đảo ngã xuống tuyết. Sớm hôm sau, từ nơi Tuy-líp nằm, một cảnh tượng lạ lùng hiện ra, trên bãi tuyết trắng lạnh xuất hiện cơ man bông hoa đỏ bừng nở. Người ta lấy tên nàng đặt cho hoa gọi là hoa Tuy-líp từ đó, tạo vẻ đẹp cho đời.”
Lại có chuyện tên hoa Tuy-líp bắt nguồn từ đâu? Là loại hoa của Iran và Thổ Nhĩ Kỳ. Hình ảnh của hoa được khắc họa trong nghệ thuật dân gian ở Ba Tư cũ và Thổ Nhĩ Kỳ. Cái tên châu Âu Tuy-líp bắt nguồn từ một từ tiếng Ba Tư “Turban”, nghĩa là khăn xếp, là từ tập quán cài hoa lên chỗ xếp khăn của người Ba Tư. Cũng có thể là từ đặc điểm của hoa khi chưa nở to, giống chiếc mũ không vành hay khăn xếp. Người Thổ Nhĩ Kỳ lại cho rằng không rõ từ khi nào, mà chỉ biết hoa Tuy-líp bắt nguồn từ Thổ Nhĩ Kỳ với tên gọi “Tulipan”, vì hình dáng như chiếc khăn đội đầu của người Thổ thời kỳ đó. Chứng minh điều này có chuyện kể: Vua Thổ trước khi có lễ cưới một ngày, đã lệnh cho người làm vườn trong ngày cưới của mình phải có nhiều hoa Tuy-líp trưng bày trong Cung đình. Và ngoài vườn thì đầy hoa nở. Đận ấy là tháng 11. Người làm vườn nhờ một đạo sĩ thổi sáo suốt một ngày một đêm. Kỳ lạ thay sáng sớm hôm sau vườn hoa nở rộ đầy màu sắc. Vua Thổ ban thưởng người làm vườn một thanh vàng. Người làm vườn xin được trao lại cho người đạo sĩ và thưa rằng công ấy là của ông ta.
Vậy có hoa “Tuy-líp đen” như trong tiểu thuyết của Alexandre Dumas? Đêm tối ngự trị màu đen huyền bí, sức mạnh siêu nhiên. Nên hoa màu đen đã thu hút sự quan tâm đặc biệt của con người về vẻ đẹp và sức mạnh tâm linh, và gắn cho nó nhiều huyền thoại huyễn hoặc. Người ta đã cố gắng rất nhiều trong lai tạo nhằm có được loại hoa Tuy-líp đen. Nhưng thất bại. Rồi lại dùng mọi thủ thuật bí mật, cũng chỉ cho ra đời loại Tuy-líp có màu tím xẫm hay đỏ xẫm, và cứ đồn bừa lên nó là đen. Dù sao chăng nữa những câu chuyện như thế được truyền đi rất nhanh, thêu dệt thêm yếu tố huyền bí như là một phát hiện mới, làm cho hoa Tuy-líp càng nổi tiếng và hấp dẫn. Tựu trung, chỉ có người Hà Lan là giàu có rất nhanh từ hoa Tuy-líp. Loài hoa được xếp vào hàng phát triển như “Cơn sốt vàng”...
Ghi chép của Giang Lân

HOA THIÊN LÝ NGÀY XƯA *Hoàng Nhật Tuyên

Tội nghiệp thằng bé nhớ thương mãi quê nhà
Giàn thiên lý đã xa, đã rời xa ...
HOA THIÊN LÝ NGÀY XƯA
*Hoàng Nhật Tuyên
Tôi nhớ, ngày xưa, nhà em có trồng một giàn hoa thiên lý. Cứ mỗi độ thu về, giàn dây leo ấy nở đầy những chùm hoa, mà mỗi bông hoa như những ngôi sao có màu xanh non vương vương sắc trắng.
Đó là loài hoa chiều chiều theo gió tỏa đi mùi hương thoang thoảng, dịu ngọt, và chúng mình ngày ấy đang ở tuổi học trò mười bốn, mười lăm. Đã có những buổi cả đám chúng mình ngồi tụm đầu vào nhau, mở sách, giải những bài toán khó, rồi cùng cười đùa, rượt đuổi nhau bên cái bờ rào bằng chè tàu phủ kín những dây tơ hồng vàng óng. Đã có những buổi chiều, cùng học với nhau xong, cả bọn trèo lên cây khế ở bờ ao, hái những trái khế chua, chấm muối rồi cười nhăn cả mặt, rồi trêu chọc, cười đùa, có đứa còn ghép đôi, đuổi nhau, đấm vào lưng nhau thùm thụp… trong khi khắp sân, nắng đã nhạt màu và mùi hương hoa lý giăng đầy.
Tôi nhớ hoài có lần em mượn tôi cuốn sách có in câu chuyện nói về tình yêu rất đẹp gắn liền với loài hoa ấy. Trả sách cho tôi, em khen truyện hay, cảm ơn, rồi nhìn tôi với ánh mắt rất lạ. Ánh mắt ấy, ngày xưa tôi nào biết ẩn chứa điều gì, để rồi tháng năm đi qua trong lòng tôi vẫn còn là dấu hỏi.
Hoa thiên lý ngày xưa! Tôi lớn lên hơn, muốn mượn câu ca dao “Tóc em dài em cài bông hoa lý. Miệng em cười anh để ý anh thương”, để gửi về phía em những điều đêm đêm mình thao thức. Nhưng dạo ấy khi tuổi học trò chúng mình chưa đi hết thì chiến tranh đã đến...
...
“Tóc em dài em cài bông hoa lý…”. Câu ca dao xưa, chiều nay, tôi đọc lại. Câu ca dao suốt một đời, tôi định mượn để ngỏ cùng em nhưng chưa kịp nói. Để rồi bao năm đi qua, chiều nay, nơi quê nhà tôi lang thang, chạnh nhớ ngày xưa…
HOÀNG NHẬT TUYÊN