Ngày xưa, nhà mình cũng có bức rèm bánh ú làm bằng ống hút nhựa...
NHỮNG NGÀY MƯA BÃO
*Ngô Thị Thu Vân
Bão. Đêm mưa, ngày xưa, mưa rả rích, ậm ừ, lắt lay, gió hiu hiu lạnh, bầu trời cứ ngân ngấn nước. Mưa có lúc như oán giận, làm mình làm mẩy với ai, có lúc lại như lặng lẽ cam chịu. Nhớ câu hát cũ "đời từ muôn thuở tiếng mưa có vui bao giờ". Vậy mà có đó.
Đó là những ngày mưa bão thâu đêm suốt sáng. Không đi sửa xe được ba ở nhà lục mấy mấy miếng gỗ cũ đóng đồ chơi, lấy ống hút bày cho mấy chị em thắt "bánh ú" xâu màn cửa; dạy chị Hai nhồi bông gòn vào vải vụn thành mấy cô gái Nhật điệu đàng trong chiếc kimono sặc sỡ. Ba lại tỉ mẩn ngồi xếp con diều bằng giấy tập học trò. Má không ra ruộng hái rau vì trời mưa chợ ế, ở nhà lục đục đổ bánh xèo bằng bột mì. Bánh xèo da cuốn trong mấy đọt bạc hà non chấm nước mắm tỏi ớt ngon thấu trời đất. Buổi trưa mấy cha con hè nhau tát nước. Nước trên trời đổ xuống. Nước dưới đất chui lên. Nước từ mấy thửa ruộng rau muống bên kia xóm tràn vào. Mảnh sân trước nhà như một dòng sông nhỏ gặp cơn lũ cuốn. Nước cuộn ào ào đổ xuống cái hà lãng. Thằng Út cởi truồng đứng ngập mông chỗ dòng nước xiết, nước cuộn vào "chỗ nhột". Nhột quá, nó khoái tỉ cười nắc nẻ. Chị Hai thấy vậy xăn quần làm thử, bị ba cú cái "cốc": "Lớn đầu hổng nên thân. Phụ ba tát nước nè. Nước tới nóc nhà bây giờ". Buổi chiều mưa ngớt hột. Ngoài sân mấy con cá sặc từ dưới hà lãng lội ngược dòng nước lạch bà lạch bạch. Lũ trẻ reo hò. Ba làm chỉ huy thu "chiến lợi phẩm". Buổi tối, cơm nóng cá sặc chiên giòn dầm nước mắm tỏi chấm rau muống luộc. No nê, cả đám lên giường trùm mền nghe má kể chuyện đời xưa. Đời xưa thiệt, đời xưa giả nghe mê tơi.
Má kể: "Hồi đó, má còn nhỏ chừng bằng chị Hai bây giờ. Tối nào bà ngoại cũng gói bánh ít để sáng đem ra chợ bỏ mối. Má ngồi chơi bên ngoại trên bộ vạt cau. Ngó xuống đất thấy cái mặt vằn vện bự bằng cái nia chao qua, chao lại trên mặt đất. Má sợ quá khóc thét lên kêu ngoại. Bà ngoại nhìn không thấy. Ông ngoại cũng nhìn không thấy. Không ai nhìn thấy. Chỉ một mình má thấy hoài. Cứ trời sụp tối là má thất thần. Ông ngoại rước ông thầy cúng bên Long Hưng qua. Ổng lấy cây chổi cùn quét chuồng heo, đập mấy cái lên đầu má, miệng niệm thần chú "úm ba la, úm ba la". Đêm sau má vẫn thấy. Mỗi ngày cái mặt vằn vện càng thêm rùng rợn. Ông ngoại dọn nhà đi chỗ khác. Má hết thấy".
Căn nhà mới day cửa ra hướng mé sông. Trước nhà là một khoảng sân rộng. Ở giữa sân có cái bàn ông Thiên làm bằng mấy miếng vạt cau ghép lại đặt trên cái cháng ba cây gòn sống. Góc sân bên phải chỗ lối mòn dẫn ra bờ sông có cây mận xanh, trái bằng cái chung con rồng, da xanh miết, càng chín càng xanh, vỏ mỏng, ruột xốp, ngọt ngán cần cổ. Gian nhà dưới cất kiểu chữ đinh, cũng day cửa ra mé sông. Ngoài cửa bước vô là đụng cái bàn ăn hình chữ nhật kê dựa vô cái "trảngxê" tấn bằng bao cát. Một đêm, nhà chuẩn bị đám giỗ. Bà ngoại với mấy bà gói bánh ở mé chái hè. Ông ngoại với mấy ông uống nước trà ở nhà trên. Má với dì Ba ngồi học bài trên bàn.
Gió ngoài sông thốc vô rào rào, thổi tắt ngọn đèn dầu làm bằng cái lon thiếc má sợ quá khóc rum. Ông ngoại từ nhà trên xuống, bật cái ống quẹt đá xẹt xẹt, cả chục cái lửa mới bắt vô được cái tim đèn rồi ngó quanh quất: "Uả con Ba đâu rồi?". Cả nhà tá hỏa đi tìm, kêu khản cả tiếng không thấy dì Ba trả lời. Từ kẹt cửa tới chuồng gà, bồ lúa, chỗ nào cũng bị lục tung lên. Ông ngoại lật úp cái thùng thiếc vỗ xèng xèng. Xóm trong túa ra, xóm ngoài túa vô, xóm bên sông lộp cộp chống xuồng qua. Kẻ trên bờ, người xuống rạch mò tìm. Đuốc đỏ rực nhấp nhá. Tiếng bàn tán xôn xao. Bỗng má nghe như có tiếng ai thở đằng sau cánh cửa; tiếng thở nhè nhẹ nghe quen lắm. Má la lên: "Em nè ba ơi !". Ông ngoại chạy vô. Người trên bờ ùa vào, người dưới sông lóp ngóp bò lên. Bà ngoại kéo cửa ra. Dì Ba đứng co ro, run lập cập, điếng hồn một hồi mới khóc ré lên. Mấy người đàn bà lao nhao: "Chỗ này nãy kiếm rồi mà.", "Bà có kéo cửa ra không?", "Có sao không?", Sao nãy không thấy?" Bà ngoại dỗ dành: " Sao nãy má kêu con hổng dạ?". Dì Ba nhỏ nhẻ: "Con nghe má kêu, con tính dạ mà bị ai bóp họng hoài con dạ hổng được." Mọi người đưa mắt nhìn nhau, trong bụng ai cũng nghĩ dì Ba bị ma dấu mà không dám nói ra. Sau đó, dì Ba bị sốt li bì mấy ngày, mê sảng ấm ứ suốt đêm. Ông ngoại lại bàn chuyện dọn nhà đi chỗ khác...".
Mấy thằng nhóc sợ quá lấn nhau, vuột mền, níu kéo, gây gổ. Má không thèm kể nữa, vỗ cho mỗi đứa vào mông mấy cái bẹp bẹp. Cả lũ nằm im re, chẳng mấy chốc ngáy o o... Chị Hai không sợ ma, nhưng không biết sao không ngủ được, nằm lăn qua trở lại nghe tiếng mưa rơi nghĩ ngợi mông lung. Má lên tiếng: "Sao hổng ngủ đi Hai?". Chị Hai đẩy thằng Út ra, nằm chen vào gần chỗ má: "Bộ có ma thiệt hả má?". " Ờ, má cũng hổng biết, nhưng cái mặt vằn vện má có thấy thiệt. Dì Ba bị ma dấu má cũng thấy thiệt. Còn chuyện cậu Tư… Ờ, bữa đó má hổng có nhà chỉ nghe kể lại". Chị Hai bỗng thấy ớn sống lưng. Chị nhích sát vô người má. Hơi má ấm và tóc má thơm mùi xà bông Cô Ba làm chị thấy dễ chịu. Chị hỏi: "Chuyện cậu Tư sao má ?" Má ngáp cái ơ: "Ờ... Bữa đó, ông ngoại đang lui cui tát nước bằng cái bẹ chuối áp sát vô be xuồng hất nước ra sàn sạt, nghe cậu Tư kêu tiếng được tiếng mất: "Ba ơi, con đi câu với anh Hai Bọ nghe…". Ông ngoại lúc này đã ngừng tay. Mưa đêm qua rỉ rả hổng thấy gì mà nước muốn nửa xuồng, tát kiểu này biết chừng nào. Ông quăng cái bẹ chuối vô bờ, đứng dang chân lên hai cái be xuồng lắc mạnh. Xuồng tròng trành, nước sóng sánh tràn ra ngoài. Ông trả lời cậu Tư cũng tiếng được tiếng mất: "Ờ! Đi về sớm sớm nghe mậy." Hồi ông ngoại nói câu đó cậu Tư đã xách cần câu với cái đục đi qua khỏi gò đất đằng sau chuồng trâu rồi.
Chiều. Ông ngoại đi thăm ruộng về. Nắng đã tuột khỏi ngọn cây rơm cao ngất ngưởng. Mấy con cò trắng táo tác dưới chân ruộng phóng lên lũ lượt có bầy. Nước theo tiếng con bìm bịp kêu đổ về mang theo mấy dề lục bình bông tím ngắt trôi lừ đừ. Chuông mõ công phu bên chùa bà vãi Thông chậm rãi buông từng tiếng một. Cậu Tư cũng chưa về. Ông ngoại hỏi vói sang nhà ông Năm: "Hú! Anh Năm ơi! Thằng Bọ đi câu về chưa anh Năm?". Tiếng ông Năm ho khùng khục trả lời đứt quãng: "Thằng Bọ bữa nay vô trong xẻo lá phụ dặm lúa với chị Hai nó, có ở nhà đâu mà câu với kéo anh Ba ơi". Vậy là mọi người lại một phen thất kinh hồn vía hơ hãi đi tìm. Cũng kẻ trên bờ, người dưới sông. "Sợ là nó bị vọp bẻ nửa chừng, chớ cái thằng lội như rái sao mà chết chìm được."
Má ngừng kể, trở mình đưa tay đấm vô lưng thùm thụp. Chị hai thò tay ra sau lưng má: "Con đấm cho, má kể tiếp đi". "Ờ, chừng con trăng non mỏng hơn cái lưỡi liềm lú lên khỏi ngọn cây lờ mờ tranh sáng tranh tối thì cậu Tư con xách cái đục cá thơ thẩn từ hướng vàm Long Thủy đi vô. Cần câu đâu hổng thấy, còn cái đục đựng toàn đất sét. Miệng mồm cậu Tư cũng toàn đất sét. Hỏi, cậu trả lời: "Anh Hai Bọ rủ đi câu rõ ràng. Hai đứa câu đầy một đục cá. Chừng về tới bụi trâm bầu, thấy chị Sáu bưng xề bánh còng bánh cam đi bán. Chỉ rủ ăn. Ăn mấy cái cũng hổng nhớ, rồi lăn ra ngủ. Chừng thức dậy, thấy cứng ngắc một họng móc ra toàn đất sét". Ông ngoại chạy qua nhà chị Sáu. Chỉ nói bữa nay con chỉ bệnh, chỉ hổng có đi bán. Từ đó con nít trong xóm bị cấm không cho chơi chỗ bụi trâm bầu. Còn người lớn hổng ai cấm cũng làm như không có chuyện gì cần đi ngang chỗ đó. Bụi trâm bầu tha hồ mọc, gốc cả người ôm, tán rợp um tùm".
Mưa đã ngừng rơi, chỉ còn tiếng gió sườn sượt thổi rung rinh mấy tàu lá dừa làm rớt nước xuống mái nhà nghe lốp đốp rời rạc. Bên ngoài đi-văng tiếng ba chép miệng: "Thôi nghỉ được rồi ông Trời ơi, mưa bão hoài chết đói hết con người ta…". Chị nghe tiếng má thở đều đều, thỉnh thoảng hắt một hơi mạnh ro ro trong cổ họng, biết má đã ngủ say .
...
...
Ngô Thị Thu Vân
(Trích phần đầu truyện ngắn "Những Ngày Mưa Bão" của Ngô Thị Thu Vân đăng trên https://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham...)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét