Đi qua cuộc chiến tranh...
TRÊN XỨ BUỒN MUÔN THUỞ (tiếp theo)
3.
Xứ BMT. Buồn Muôn Thuở. Là đây sao? Phố vắng, nhưng cũng có người lác đác.
Xứ BMT. Buồn Muôn Thuở. Là đây sao? Phố vắng, nhưng cũng có người lác đác.
Xe nhà binh tấp nập. Tôi nghĩ, không đến nỗi nào, có buồn cũng chút đỉnh thôi, làm gì mà muôn thuở? Đến phi trường quân sự L19, vừa ló đầu ra cửa máy bay, tôi thấy một chiếc jeep đang chờ, trên có ông cậu Thiếu úy, dáng cao gầy, điếu thuốc chưa đốt dính môi, và một thiếu úy khác còn trẻ, tầm thước, áo quần trận tươm tất, ủi thẳng nếp, cổ quấn một khăn quàng xanh dương. Tay bắt mặt mừng. Ông cậu giới thiệu:
- Thiếu úy Phạm Văn Tải, Trung đội trưởng 403 Dân Sự Vụ, cùng khóa 15 Thủ Đức với cậu.
Thiếu úy Tải nở nụ cười tươi, lộ một chiếc răng cửa bọc vàng. Xã giao, bặt thiệp, niềm nở, khiến tôi cảm thấy an vui. Trên đường vào thành phố, Tải bắt chuyện, ân cần hỏi han về sức khoẻ, gia thế, khởi đầu binh nghiệp thấy thế nào...
- Thiếu úy Phạm Văn Tải, Trung đội trưởng 403 Dân Sự Vụ, cùng khóa 15 Thủ Đức với cậu.
Thiếu úy Tải nở nụ cười tươi, lộ một chiếc răng cửa bọc vàng. Xã giao, bặt thiệp, niềm nở, khiến tôi cảm thấy an vui. Trên đường vào thành phố, Tải bắt chuyện, ân cần hỏi han về sức khoẻ, gia thế, khởi đầu binh nghiệp thấy thế nào...
Tôi trả lời chừng mực, vì mắt còn mải ngắm những hàng cây xanh biếc phơi mình trong tia nắng chiều vàng vọt và những căn nhà khang trang, nằm san sát bên nhau trên con đường đất lồi lõm hoặc trải nhựa phẳng phiu. Lại bụi đỏ, lại cái lạnh buốt xương của cao nguyên trong chiều hiu hắt, dù màn đêm chưa kịp buông. Tôi kéo chặt cổ áo jacket nhà binh. Hai ông Thiếu úy có vẻ quen khí hậu, ngồi tỉnh bơ. Vào phố, thấy những bàn thờ Phật bày ngoài đường, hoặc trước tư gia. Tôi thắc mắc:
- Ủa, tại sao vậy cà? Cụ Diệm bị giết rồi mà, sao vụ này vẫn chưa dứt?
Tải cắt nghĩa:
- Mấy ông Phật giáo tranh đấu đưa Phật xuống đường chống đối chính phủ Trần Văn Hương. Cả tháng nay, lính Tiểu khu đi dọn dẹp bàn thờ, mệt nghỉ.
- Ủa, tại sao vậy cà? Cụ Diệm bị giết rồi mà, sao vụ này vẫn chưa dứt?
Tải cắt nghĩa:
- Mấy ông Phật giáo tranh đấu đưa Phật xuống đường chống đối chính phủ Trần Văn Hương. Cả tháng nay, lính Tiểu khu đi dọn dẹp bàn thờ, mệt nghỉ.
Về đến căn nhà thuê, đường Huyền Trân Công Chúa. Bước vào thấy một gian lớn chia thành phòng tiếp khách và phòng ngủ ngăn cách nhau bởi một tấm bình phong bằng nhựa mờ đục sơn hình mỹ nữ, chim chóc, và hoa hòe hoa sói. Năm chiếc giường bố nhà binh, đặt cạnh nhau dành cho bốn sĩ quan ma cũ và một cho tôi, ma mới. Một chiếc giường gỗ lớn, có nệm êm, ông cậu tôi nói, là của vợ chồng Trung đội trưởng Tải. Bà vợ mang bầu, về quê Lâm Đồng tĩnh dưõng, và Tải trở thành độc thân tại chỗ. Nghĩa là căn nhà chứa năm sĩ quan độc thân thiệt và một độc thân giả.
Một số sĩ quan của Trung đội mướn nhà khác, hoặc ở với thân nhân, như Thiếu úy Lê Đồng, trung đội phó, cùng khoá 15 Thủ Đức với Tải và Cậy, cũng mê đánh phé như ông cậu tôi, ở nhà người vợ chưa bao giờ (chịu) cưới. Phía sau căn nhà là một phòng nhỏ hơn, đầy đủ tiện nghi, lối đi riêng bên hông, do hai cô giáo độc thân mướn, tên Nga và Thu, người Bắc. Hai cô có vẻ hiền thục, đoan trang, đẹp nhưng không lồ lộ, có duyên ngầm. Buổi tối, biết có một chuẩn úy tân láng giềng đến, hai cô nấu chè đem qua, coi mắt. Chấm đậu, cho nên về sau thỉnh thoảng bị đau, hoặc đi hành quân về, tôi được hai cô cạo gió và nấu cháo gà cho ăn. Ngược lại, chúng tôi rất quý hai cô.
Tôi nhớ trong căn nhà độc thân ấy, ngoài ba thiếu úy Tải, Cậy, Phúc và tôi, còn có Chuẩn uý Võ Văn Quang. Quang, mập lùn, dáng đi bệ vệ, là một autodidacte suốt ngày không rời quyển Anh văn “English for to-day”, ở đâu, lúc nào cũng nói lảm nhảm một mình những câu trong sách, và chê tiếng Anh của tôi đặc giọng Tây, nghĩa là rất tệ. Quang được anh em đặt nickname là Quang Học Giả.
Lúc ấy, tôi trẻ nhất trong đám, và lon mới nhất, nên không dám nói nhiều, chỉ nhìn thôi, đóng vai con nai vàng ngơ ngác.
Lúc ấy, tôi trẻ nhất trong đám, và lon mới nhất, nên không dám nói nhiều, chỉ nhìn thôi, đóng vai con nai vàng ngơ ngác.
Ngày tôi đến, lúc tan sở, tất cả sĩ quan Trung đội 403 DSV kéo về “tư dinh Huyền Trân Công Chúa”, chất đầy một xe. Anh nào cũng bắt tay tôi, lòng mừng thầm từ nay có thêm sĩ quan nên phiên đi hành quân được nới rộng ra, lâu hơn. Họ giải thích, Trung đội Dân Sự Vụ, gồm toàn sĩ quan, chia doanh trại với Đại đội Tâm Lý Chiến chỉ huy bởi Thiếu úy Nguyễn Văn Mỹ và Thượng sĩ Nguyễn Hữu Đạo, một thi sĩ có hạng của Ban Mê Thuột –gồm toàn hạ sĩ quan và binh sĩ, có cả người Thượng Ra-đê, như Trung sĩ Y Ksor, biết nói chút ít tiếng Pháp. Mỗi khi Đại đội có lệnh đi công tác theo Sư đoàn 23, Thiếu úy Mỹ lập một toán hỗn hợp gọi là TLC-DSV và Thiếu úy Tải cử một sĩ quan, luân phiên, làm trưởng toán. Trung bình mỗi tháng đi công tác hai lần, mỗi lần trên một tuần, đôi khi cùng một lúc cần đến hai, ba toán theo những cánh quân khác nhau. Về vũ khí thì ngoài cây Colt do trung đội phát, để đeo cho oai, tôi được ông cậu cho cây carbine tự động, báng xếp rất gọn, của riêng ông.
Hàng ngày, Thiếu úy Tải chở chúng tôi đi làm trên xe jeep, ngang qua Bộ Tư Lệnh Sư đoàn 23. Vào câu lạc bộ Đại đội do vợ một hạ sĩ thầu, để uống cà phê, ăn bún bò, bún riêu, dĩ nhiên ghi sổ, bắt đầu từ giữa tháng. Những ngày không đi hành quân, ở trại, các sĩ quan không biết làm gì để giết cho hết thời gian. Thiếu úy Tải lại dễ dãi, không bày việc để hành anh em, như đa số các chỉ huy khác, miễn là đến phiên công tác ai cũng phải chu toàn nhiệm vụ. Ăn sáng xong, rủ nhau ra Chợ Nhỏ sát bên doanh trại uống bia, liếc mắt đưa tình cô chủ tiệm Nam kỳ nho nhỏ xinh xinh, đánh bi da, ăn trưa. Riết rồi các bà các cô trong chợ biết mặt chúng tôi hết.
Lần đầu công tác tôi phải dẫn một toán TLC-DSV tăng phái cho một tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 45 của Trung tá Võ Văn Cảnh hành quân giải tỏa Buôn Hô, bị VC tạm chiếm. Buôn Hô cách 30 km về hướng Bắc Ban Mê Thuột, trên đường đi Kontum. Đó là một quận lỵ dân cư thưa thớt, gồm cả Kinh lẫn Thượng, đa số làm rẫy. Đi theo một tiểu đoàn khác là toán của Thiếu úy Phan Văn Tần. Lần ấy Tiểu đoàn của tôi đụng nặng, nên toán TLC-DSV không thể làm công tác, nghĩa là bắt buộc phải chiến đấu như ai. Cũng súng cầm tay nạp đạn sẵn sàng, bám sát bộ chỉ huy Tiểu đoàn. Ông Đại úy Tiểu đoàn trưởng người Quảng, rất gan dạ, có thói quen nói tiếng Anh mỗi khi cho lệnh di chuyển, “léc xì gau, gau” (let’s go, go!), và luôn miệng nhắc tôi, “khi nàu tui roa lẹng muối được béng nghe choa” (khi nào tôi ra lệnh mới được bắn nghe cha). Tiếng súng đủ loại vang rền. Đạn rít qua nón sắt. Tổng cộng, trận đó, riêng tôi bắn hết ba băng carbine vẫn chưa đã, không biết có trúng ai không, nhưng thấy kích thích được tham chiến trực tiếp. Phấn khởi lắm. Đến khi một binh sĩ của tôi bị thương ở cánh tay, máu chảy xối xả, miệng rên đau, và một mảnh đạn tạt qua vai trái tôi, làm rách một đường áo, nhưng không nặng lắm, tôi hiểu rằng tôi đang đối diện cái chết thực sự cận kề và chiến tranh không phải là một trò đùa, hay một thủ đoạn chính trị. Tôi cũng hiểu rằng thái độ của những tên sợ chết, trốn quân dịch, như Trịnh Công Sơn, có thể được thông cảm phần nào, nếu chúng đừng che đậy sự hèn nhát dưới chiêu bài phản chiến một chiều, làm lợi cho VC. Vài phút sau, Trung úy Mỹ, khoá 16 Võ Bị, một đại đội trưởng đẹp trai, dáng phong trần, đứng gần tôi, bị bắn bay nón sắt, vỡ óc. Chở về Ban Mê Thuột ngay, và tôi nghe kể, người yêu của anh, vốn là một vũ nữ, tên Diễm, đẹp nhất của bar Thế Giới, Ban Mê Thuột, đã ôm xác anh khóc như mưa như gió, và xỉu lên xỉu xuống, rất tội.
Sau lần baptême du feu (rửa tội bằng lửa) dữ dằn ấy, tôi tự thấy mình “chì” hơn, “lớn” hơn, và được Thiếu úy Tải đối đãi ân cần, coi như anh em. Tôi về BMT được hai tháng thì ông cậu phải xuống Qui Nhơn để nắm Đại đội TLC dưới đó, và Thiếu úy Phúc cũng đổi đi đâu, không rõ. Còn lại mình tôi, Tải và Quang trụ trì căn nhà rộng, trở thành vắng vẻ. Đêm khuya, bấy giờ tôi mới để ý, nghe trên trần có tiếng như của một người bị xiềng, lê từng bước chầm chậm, xích sắt khua loảng xoảng, ớn xương sống. Quang nói, căn nhà này là của một bà có chồng sĩ quan bị rớt trực thăng chết cháy đen. Như vậy, nhà có ma, Quang kết luận, cố ý dọa tôi. Tôi càng ớn hơn. Và đêm nào Tải và Quang đi vắng, tôi phải mang chăn gối vào Trung đội hoặc sang nhà Thượng sĩ Nguyễn Hữu Đạo gần đó ngủ ké, để trốn ma.
Nửa tháng sau, có chuẩn úy mới ra lò Phạm Trọng Khôi đến “nhập hộ khẩu” căn nhà ma. Khôi là kỹ sư canh nông từ Pháp về, đã lập gia đình, con của bác sĩ Phạm Trọng Nhân Đà Lạt. Khôi dễ thương, vui tính, tóc lùi khá nhiều về phía sau gáy, để lộ một vầng trán cao, thông minh, được chúng tôi đặt tên là “Khôi Trán Cao”. Anh được cấp một giường bố, nằm sát tôi, và thỉnh thoảng hai đứa nói chuyện nho nhỏ bằng tiếng Pháp với nhau. Đêm đầu, anh cũng nghe tiếng xích sắt trên trần nhà, và cũng hoảng như tôi.
Thiếu úy Phạm Văn Tải là nhạc sĩ dương cầm và phong cầm có hạng. Sau giờ làm việc, anh chơi đàn tại một vũ trường, hình như tên Mỹ Cảnh, tôi không nhớ rõ, đường Tôn Thất Thuyết, cho đến nửa đêm. Anh nhờ tôi lái xe đưa và đón, và mỗi tháng nhét vào túi tôi một, hai trăm “uống cà phê”. Có khi bảo tôi ở lại phòng trà uống bia free, ngắm chùa các vũ nữ thân gầy uốn éo cho đời mua vui. Dáng dấp Tải nhanh nhẹn, hào hoa phong nhã, nói chuyện với các cô ngọt như mía lùi. Cho nên ai lỡ dại giới thiệu bồ mới với anh là trước sau gì bồ cũng đơn phương mê anh, mặc dù anh rất đứng đắn, đâu ra đó, không giở trò tán tỉnh ai bao giờ.
Thời còn ông cậu tôi, thỉnh thoảng Tải tổ chức khiêu vũ tại căn nhà ma, mời tất cả sĩ quan Trung đội, hai cô láng giềng Thu, Nga, và bạn bè, các ca sĩ Đại đội, Tiểu khu, hay đài phát thanh Ban Mê Thuột, trong số có hai cô Thượng khá xinh, và vũ nữ, ca sĩ phòng trà tham dự. Có cả Thiếu úy Đội trưởng Quân Cảnh Nguyễn Vinh Hiển. Đó là những đêm vui thực sự, đối với mọi người. Vì hát sai nhịp và nhảy dở, tôi được Tải chỉ định làm trưởng ban tiếp tân, nghĩa là quét nhà, dọn dẹp giường chiếu nhét vào kho phía sau, và mặc veste, đeo cà-vạt đứng ở cửa chào đón quan khách, và trong tiệc mang khay bia, nước ngọt đi mời vòng vòng. Ông cậu Cậy, Quang, và các sĩ quan Trung đội nhảy cũng cỡ “gà chết” giống tôi, nhưng họ can đảm hơn, điệu nào cũng dắt đào ra... sân. Tôi không có đào. Thấy bơ vơ tội nghiệp, Tải gửi tôi cho một cô vũ nữ đẹp nhất trong đám, nước da trắng muốt, tên Mộng Lan, từ một vũ trường Sài Gòn lên Cao nguyên lập nghiệp, với những lời ân cần dặn dò, “ảnh nai tơ lắm, còn trinh hay không thì anh không bảo đảm, cưng nhẹ nhẹ tay một chút nghe”. Lan cười, nheo mắt ngắm tôi từ đầu đến chân một hồi, như nài xem ngựa đua:
- Trông mặt mũi, anh cũng đẹp trai. May phước cho anh. Nghe anh Tải nói anh là dân trường Tây mà sao cù..., ý quên, em muốn nói, mà sao không biết nhảy?
Cô vừa tránh kịp chữ “lần”, tôi đoán. Tôi ấp úng:
- Thì tôi cũng biết sơ sơ. Đâu phải anh trường Tây nào cũng giỏi nhảy đầm đâu. Từ nhỏ tới lớn tôi có đi vũ trường bao giờ, vì vừa nhà quê vừa không có tiền vừa phải học bài. Kìa như anh Khôi Trán Cao kia, du học ở Pháp về, mà nhảy đâu khá gì hơn tôi.
- Được rồi, để em dạy anh vài điệu.
Nói xong, Lan kéo tay tôi lôi vào sàn nhảy. Tôi run lên. May quá, lúc ấy vừa xong bản valse, ban nhạc bắt đầu chơi điệu slow, là điệu mà dù cù lần đến mấy ai cũng phải biết. Ánh sáng bỗng hạ xuống mờ ảo. Lan ôm tôi, dìu bước, chủ động. Mái tóc thoảng hương, dìu dịu. Tôi cũng liều nhắm mắt đưa chân. Một lúc sau, cô ngả đầu vào ngực tôi, thúc giục:
- Ôm em sát, ôm mạnh chút nữa đi anh. Slow là phải như vậy, sĩ quan gì mà nhát như thỏ đế. Em là ma hay sao mà anh sợ dữ vậy?
- Trông mặt mũi, anh cũng đẹp trai. May phước cho anh. Nghe anh Tải nói anh là dân trường Tây mà sao cù..., ý quên, em muốn nói, mà sao không biết nhảy?
Cô vừa tránh kịp chữ “lần”, tôi đoán. Tôi ấp úng:
- Thì tôi cũng biết sơ sơ. Đâu phải anh trường Tây nào cũng giỏi nhảy đầm đâu. Từ nhỏ tới lớn tôi có đi vũ trường bao giờ, vì vừa nhà quê vừa không có tiền vừa phải học bài. Kìa như anh Khôi Trán Cao kia, du học ở Pháp về, mà nhảy đâu khá gì hơn tôi.
- Được rồi, để em dạy anh vài điệu.
Nói xong, Lan kéo tay tôi lôi vào sàn nhảy. Tôi run lên. May quá, lúc ấy vừa xong bản valse, ban nhạc bắt đầu chơi điệu slow, là điệu mà dù cù lần đến mấy ai cũng phải biết. Ánh sáng bỗng hạ xuống mờ ảo. Lan ôm tôi, dìu bước, chủ động. Mái tóc thoảng hương, dìu dịu. Tôi cũng liều nhắm mắt đưa chân. Một lúc sau, cô ngả đầu vào ngực tôi, thúc giục:
- Ôm em sát, ôm mạnh chút nữa đi anh. Slow là phải như vậy, sĩ quan gì mà nhát như thỏ đế. Em là ma hay sao mà anh sợ dữ vậy?
Nghe nhắc đến ma, tự nhiên tôi ngước nhìn trần nhà. Trả bài xong, về lại ghế ngồi, trong khi Lan cặp với một chàng “kỵ mã” khác, thỉnh thoảng đưa tay về phía tôi hôn gió, cười ghẹo, tôi ngắm Tải và các bạn anh say sưa “múa đôi” (chữ VC), điệu nào cũng bay bướm, bước đi quá đẹp, mà phát thèm. Có một anh khách tôi quen mặt thường nhảy với chỉ một cô bồ ốm nhom, mỗi lần sắp kết thúc bài tango, đều làm một động tác rất trademark mà tôi cứ tấm tắc khen mãi, là vật ngửa cô xuống gần chạm sàn, hai chân duỗi song song giữa chân anh, còn anh cúi sát trên người cô, mặt thộn ra, mắt lim dim –điều mà tôi nghĩ nếu phải làm tôi sẽ từ chết tới bị thương, nghĩa là té gãy lưng. Và dịp đó cũng là lần đầu tôi được ôm nhảy miễn phí tại gia với một vũ nữ thực thụ. Và là lần cuối. Vì một lúc sau, giữa đám quan khách có một anh Trung úy An Ninh Tiểu khu hay Sư đoàn, tôi không nhớ rõ, rất hách xì xằng, ngà ngà say và hình như giành đào, thình lình rút súng bắn “pằng pằng” mấy phát lên trần nhà ma của chúng tôi. Quân Cảnh đến lập biên bản. Trách nhiệm, dĩ nhiên, thuộc về chủ nhà và trưởng ban tổ chức Phạm Văn Tải. May có Thiếu úy Nguyễn Vinh Hiển, mọi rắc rối thông qua. Nhưng từ đó, Tải không mở party nữa. Tôi đoán con ma trên trần muốn phá chúng tôi vì ồn ào quá, động ổ của nó.
...
(Trích TRÊN XỨ BUỒN MUÔN THUỞ-Phần 3 của KIM THANH đăng trêndongsongcu.wordpress.com)
...
(Trích TRÊN XỨ BUỒN MUÔN THUỞ-Phần 3 của KIM THANH đăng trêndongsongcu.wordpress.com)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét