Ai về núi Ấn sông Trà
Có thương cô bậu ghé nhà mà thăm" (Ca dao)
TRÊN QUÊ HƯƠNG NGÀY XƯA (VIẾT VỀ TỤC NGỮ CA DAO QUẢNG NGÃI)
*Đào Đức Nhuận
Có người bảo “Quảng Ngãi hay co” (tục ngữ), và họ cho đó là điều không tốt.
Lại có người bảo “Quảng Ngãi đãi ra sạn” (tục ngữ), và họ cũng cho đó là điều không tốt.
Tôi nghĩ khác. Tổ tiên của người Quảng Ngãi một phần là “tội đồ” của chính quyền phong kiến bị đày vào vùng đất ngoại biên này để làm phên giậu cho đất mẹ ở phía bắc. Hạng “tội đồ” này phần lớn là những người chống đối sự cai trị hà khắc của triều đình. Một phần khác trong số họ là binh lính đi theo các quan cai trị trấn đóng vùng đất mới chiếm của Chiêm Thành. Chẳng hạn như binh lính dưới quyền của Trấn Bắc Quận Công Bùi Tá Hán (1496-1568). Nhóm “tội đồ” lúc nào cũng mang trong người dòng máu “phản kháng”. Nhóm binh lính lúc nào cũng mang trong người dòng máu “can cường”. Dòng máu “phản kháng” đó, dòng máu “can cường” đó luôn luôn chảy trong huyết quản của người dân Quảng Ngãi. Nó sẽ bùng lên mỗi khi bị chèn ép. “Co” là nguồn chủ lưu của dòng máu “phản kháng” và “can cường” đó.
Quảng Ngãi ngày xưa nghèo lắm. Chính sử quan triều Nguyễn cũng đã xác nhận trong Đại Nam Nhất Thống Chí : “Quảng Ngãi đất xấu, dân nghèo, tính tình kiệm ước. . .”
Không “đãi ra sạn” làm sao được một khi nợ áo cơm vẫn ngày đêm giằng thúc con người ! Một số trong chúng ta thường đánh giá “đãi ra sạn” theo cái nhìn phiến diện của người ngày nay. Nhưng nếu chúng ta chịu đặt mình vào vùng đất nghèo nàn này khoảng một trăm năm về trước, và lùi xa hơn nữa, chúng ta sẽ hiểu tại sao tổ tiên của chúng ta đã phải “đãi ra sạn”.
Quảng Ngãi nằm trong một địa thế luôn luôn phải hứng chịu những thiên tai, nhiều khi đến khủng khiếp. Có lẽ không năm nào đất Quảng không có giông bão hay lụt lội. Đất đai thì cằn cỗi vì đầy những núi và đồi. Thực vậy, Quảng Ngãi là một dải đất hẹp nằm ép giữa rặng Trường Sơn và biển Đông. Từ Dốc Sỏi, địa đầu phía bắc Bình Sơn giáp với Quảng Nam vào đến đèo Bình Đê, địa đầu phía nam Đức Phổ giáp với Bình Định, có biết bao nhiêu là núi cùng đồi nhô lên giữa các cánh đồng hẹp: nào Trà Quân, Tham Hội, Thình Thình . . . ở Bình Sơn, nào núi Tròn, núi Sứa, Long Đầu, Thiên Ấn . . . ở Sơn Tịnh, nào Phú Thọ, Thiên Bút, La Hà, An Đại . . . ở Tư Nghĩa, nào Đình Cương, Đầu Tượng . . . ở Nghĩa Hành, nào núi Vom, Ông Đọ, Văn Bân . . . ở Mộ Đức, nào núi Dâu, núi Dàng . . . ở Đức Phổ . . .
Những ngọn núi, những đường đèo trên quê hương đó một phần đã được ghi lại bằng những câu ca dao ngọt lịm tình người :
Núi Thình Thình, chùa cũng Thình Thình
Ai lên tới đó cho mình hỏi thăm :
Vì đâu nên tiếng, nên tăm
Để cho miếng đất nghìn năm thình thình!
Đây là ngọn núi nằm về phía nam quận Bình Sơn. Trên núi có ngôi chùa mang tên Viên Giác Tự, nhưng dân địa phương vẫn gọi bằng cái tên dân dã quen thuộc: Chùa Thình Thình. Sở dĩ có tên gọi nầy là vì ở về phía tây ngôi chùa có một khoảng đất rộng, mỗi khi có bước chân người đi trên đó nghe như có âm vang “thình thình” vọng lên từ lòng núi.
Vào miền tây Sơn Tịnh ta có:
Sơn Tịnh có núi Chân Trâu,
Có bàu Ông Xá, có cầu Rừng Xanh
Từ đây đi về phía đông ta có:
Sông Trà có núi Long Đầu,
Nước kia chảy mãi, rồng chầu ngày xưa.
Núi Long Đầu, dân gian vẫn gọi là núi Đầu Rồng, là phần nối dài của dãy Tham Hội khởi đi từ phía nam huyện Bình Sơn, nhấp nhô như hình một con rồng đang trườn mình về phía nam băng qua huyện Sơn Tịnh, vào đến sông Trà Khúc thì đầu rồng thả vòi xuống sông hút nước: núi Đầu Rồng. Núi Đầu Rồng (Long Đầu) có liên hệ tới câu chuyện “Cao Biền Trảm Long” và đã để lại câu tục ngữ:
Lẩy bẩy như Cao Biền dậy non.
Nằm về phía tây Long Đầu một đoạn đường dài là núi Tròn, và về phía đông một đoạn đường ngắn là núi Thiên Ấn mà ngày xưa dân gian vẫn quen gọi bằng cái tên nôm na: núi Hó.
Sớm mai xuống Quán Cơm
Thấy hòn núi Hó
Chiều về Đồng Có
Nhìn ngọn núi Tròn
Về nhà than với chồng con
Ra đi gan nát, dạ mòn vì đâu?!
Núi Tròn (Viên sơn) còn có tên là núi Bìn Nin. Ngày xưa trên núi nầy có nhiều khỉ sinh sống, dân địa phương vẫn thường gọi là khỉ Bìn Nin.
Núi Hó tức núi Thiên Ấn. Ngày xưa núi Thiên Ấn được bao phủ bởi một rừng tranh, những vùng tranh non có màu xanh mướt, những vùng tranh già ngả sang màu vàng đất. Đứng từ xa nhìn về Thiên Ấn thấy những mảng màu xanh vàng lấp loáng bên nhau dưới ánh mặt trời trông thật ngoạn mục. Rừng tranh Thiên Ấn đã trở thành “vật chứng” cho câu chuyện tình yêu của người bình dân Quảng Ngãi:
Ngó lên Thiên Ấn nhiều tranh
Liều mình lén mẹ theo anh phen này . . .
Hay: Bao giờ núi Ấn hết tranh
Sông Trà hết nước anh mới đành xa em
Thiên Ấn được xem là “Đệ nhất danh thắng” của Quảng Ngãi. Trên núi, ngoài ngôi chùa Thiên Ấn rất nổi tiếng, còn có ngôi mộ của nhà chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng (1875-1947).
Thiên Ấn là một hòn núi khá đẹp và có lẽ trên hành tinh của chúng ta ít có ngọn núi nào có hình dáng tuyệt vời như hòn Thiên Ấn. Từ tứ phương tám hướng, đứng ở bất cứ nơi nào nhìn về, Thiên Ấn cũng mang một hình dáng duy nhất: hình thang cân. Có lẽ do đó mà nó được mang cái tên thật xứng đáng: Thiên Ấn (cái Ấn của Trời).
Chùa Thiên Ấn được xem là ngôi chùa đầu tiên tại Quảng Ngãi nên chùa vẫn được gọi là Tổ Đình Thiên Ấn. Tổ Đình Thiên Ấn nguyên là một ngôi thảo am được thiền sư Pháp Hóa (1670-1754) cho xây cất vào năm ất hợi (1695) và đến năm đinh dậu (1717), sau khi chùa đã được trùng tu, Quốc chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) đã ban biển ngạch “Sắc tứ Thiên Ấn tự” và thiền sư Pháp Hóa được tôn phong là Đệ Nhất Tổ. Và từ đây, tên của ngôi chùa đã đi vào thơ ca dân gian:
Con mèo trèo lên tấm vách
Con chó dưới ngạch ấm ách chó tru
Thương anh kẻ oán, người thù
Lên chùa Thiên Ấn mà tu cho rồi!
...
...
Nằm về phía bắc tỉnh lỵ, trên tả ngạn con sông Trà Khúc là danh thắng “Thiên Ấn niêm hà”, thì về phía nam tỉnh lỵ, đối diện với Thiên Ấn là ngọn Thiên Bút, ngọn núi cũng đã được tuần vũ Nguyễn Cư Trinh chọn làm một trong 10 thắng cảnh của Quảng Ngãi: “Thiên Bút phê vân” (Bút trời vẽ mây):
Ai về núi Bút, Quán Đàng
Núi bao nhiêu lá, dạ thương chàng bấy nhiêu.
Vào năm 1751, khi giữ chức Tuần Vũ Quảng Ngãi, Đạm Am Nguyễn Cư Trinh (1716-1761) đã nhìn núi La Hà thuộc huyện Tư Nghĩa như một thắng cảnh và căn cứ theo một câu chuyện dân gian xa xưa, ông đã đặt cho nó cái tên được lưu danh cho đến ngày nay: La Hà Thạch Trận.
La Hà Thạch Trận là đây
Bốn phương tứ hướng đá xây trận đồ !
Tiếc thay dấu tích “đá xây trận đồ” ngày xưa đã bị bàn tay của con người ngày nay phá đi gần hết bởi cái nạn “chẻ đá” để lấy đá làm móng nền nhà!
...
...
Quảng Ngãi là vùng lắm núi, nhiều rừng. Dân chúng miền cận sơn phải thường xuyên đối phó với nạn phá hoại của thú rừng. Dân chúng Mộ Đức còn truyền tụng câu:
Phèng la xóm Bầu,
Trống chầu Thi Phổ,
Mõ gỗ Thuận Yên.
...
Đất Quảng Ngãi tuy nghèo nhưng cũng đã sản sinh ra nhiều đặc sản đáng trân quý :
Chim mía Xuân Phổ
Cá bống sông Trà
Kẹo gương Thu Xà
Mạch nha Thi Phổ.
Ngoài nông sản chính là lúa, người nông dân Quảng Ngãi còn sống nhờ vào nguồn lợi trồng mía và đã sản xuất nhiều loại đường đặc sản như đường phèn, đường phổi – những đặc sản của vùng Ba La, Vạn Tượng thuộc huyện Tư Nghĩa:
– Bậu về nhớ ghé Ba La
Mua cân đường phổi cho ta với mình
– Đi qua lò mía thơm đường
Muốn vô kết nghĩa cang thường cùng ai !
Làng Xuân Phổ thuộc xã Nghĩa Thuận (Tư Nghĩa) nằm sát bờ phía nam sông Trà Khúc trồng rất nhiều mía. Hàng năm, vào cuối Thu sang Đông, khi mía đã bắt đầu trổ cờ, vào những lúc chạng vạng, từng đàn chim hàng ngàn con gồm có: chim chéo, chim chìa vôi, chim áo già, chim dồng dộc . . . sà xuống những cánh đồng mía để ngủ qua đêm. Dân chúng dùng lưới vó để bắt chim. Loại chim mía nầy thường được đem nướng để làm món nhậu thật tuyệt.
Sông Trà Khúc có loại cá bống thật ngon, đó là cá bống cát. Xưa đất Quảng Ngãi ta nổi tiếng về món cá bống kho tiêu:
Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ món cá bống sông Trà kho tiêu !
Hay: Đi đâu cũng nhớ Thu Xà
Nhớ mùi cá bống mặn mà hương tiêu !
...
Nói đến đặc sản của sông Trà Khúc, ngoài món cá bống, cá thài bai, còn có món “don”, một món ăn đặc biệt Quảng Ngãi cũng thật hấp dẫn. Don là một loại hến đòn xóc, chỉ sinh sản ở vùng nước chè hai trên đoạn sông từ Nghĩa Dõng (thành phố Quảng Ngãi) xuống đến gần cửa biển. Đây được xem là quê hương duy nhất của loài “don”. Ăn một tô don nóng hổi, dằm một trái ớt sim, vừa ăn vừa hít hà . . . thú tuyệt !
Thế nên ta mới thường nghe câu ca dao :
Cô gái lòng son,
Không bằng tô don Vạn Tượng !
Thực ra Hiền Lương thuộc xã Nghĩa Hà mới là nơi có món don ngon nổi tiếng. Dân địa phương cũng đã có câu ca dao nói lên sự quyến luyến của họ đối với những con người sống bằng nghề bán don:
Có nghèo, có khó,
Cũng lấy con vợ bán don
Lỡ khi nó chết cũng còn cặp ui !
Nói về đặc sản thì miền biển Đức Phổ còn lưu truyền câu:
Mắm Mỹ Á,
Cá Vực Tre.
Làng Cổ Lũy nằm về phía đông Tư Nghĩa ngày xưa khá nổi tiếng nhờ nó là một trong 12 thắng cảnh xưa của Quảng Ngãi : Cổ Lũy Cô Thôn. Cổ Lũy còn được nhắc nhiều nhờ vào nghề dệt chiếu:
Ai về Cổ Lũy xóm Câu
Nhớ mua đôi chiếu đón dâu về làng.
...
...
Cù lao Ré là tên gọi nôm na của hải đảo Lý Sơn, nay là một huyện của tỉnh Quảng Ngãi. Phải chăng trên hòn đảo xa xôi nầy, cặp tình nhân nào đó đã hơn một lần hò hẹn, đã hơn một lần thề thốt nặng lời:
Lên núi trồng tỏi,
Xuống đất sỏi trồng hành,
Vái trời cho tỏi tốt, hành xanh,
Chàng mua, thiếp bán kết thành nợ duyên.
Vậy mà giờ đây nợ duyên không thành, khiến cho ai đó mỗi lần nhìn ra hòn đảo ngày xưa mà chợt thấy lòng mình sầu thảm !
Lý Sơn là vùng trồng hành và tỏi nổi tiếng của Quảng Ngãi, dân gian xưa thường gọi hành Lý Sơn là hành Lao tức là hành của cù lao Lý Sơn.
Và có lẽ cũng vào một ngày xa xưa nào đó, trên chùa Thiên Ấn của hòn núi Hó quê hương cũng đã có một cặp tình nhân nào đó, cũng đã hơn một lần thề thốt nặng lời, vậy mà . . .
Qua chùa núi Hó,
Thắp bó nhang vàng,
Xin cho bạn cũ lai hoàn như xưa!
Trông trời chẳng thấy trời mưa,
Rồng đi lấy nước rồng chưa trở về.
Lựu tìm đào, đào chẳng tìm lê.
Lên non tìm quế, quế về rừng xanh!
Trách ai treo ngọn, thắt ngành,
Cho chàng xa thiếp, cho anh xa nàng!
Trách ai? Trách Đất, trách Trời? Trách duyên, trách phận? Trách mẹ, trách cha? Trách cho lễ giáo? Nào biết trách ai!
Tình yêu là một thử thách. Phải vượt qua mọi thử thách, mọi trở ngại để đạt mục đích cuối cùng của tình yêu:
Chẻ tre bện sáo ngăn sông,
Đến khi đó vợ, đây chồng mới hay.
Chẻ tre bện sáo cho dày,
Ngăn sông Trà Khúc đợi ngày gặp em!
Trà Khúc là tên con sông lớn nhất tỉnh Quảng Ngãi, chảy qua các huyện Sơn Hà, Sơn Tịnh (tả ngạn), huyện Tư Nghĩa và thành phố Quảng Ngãi (hữu ngạn). Đây là con sông nên thơ đã từng gợi hứng cho thi hào Cao Bá Quát làm nên bài thơ bất hủ “Trà Giang thu nguyệt ca” (Bài ca trăng thu sông Trà).
Tình yêu là một thử thách. Không phải chỉ là thử thách của một không gian diệu vợi mà còn là thử thách của một thời gian dằng dặc :
Đồng nào sâu bằng đồng Thi Phổ,
Thổ nào cao bằng thổ Ba Tơ.
Em thương anh chín đợi, mười chờ,
Mía kia lên ngọn trổ cờ đã lâu !
Ba Tơ là tên gọi của đất An Ba ngày xưa, không phải là huyện Ba Tơ ngày nay.
Ôi! Ngày xưa một lời hò hẹn kết nghĩa đá vàng, một lời giao ước thủy chung. Vậy mà rồi “chàng âu duyên mới, nỡ phụ tình xưa”:
Bước xuống ghe nan,
Chèo sang Bến Thóc,
Vừa chèo, vừa khóc
Kêu: Bớ anh ơi!
Bây giờ duyên mãn, tình ôi,
Để cho người khác đứng ngồi với anh!
Đập Bến Thóc nằm về phía tây huyện Mộ Đức.
Nỗi ghen tuông làm cho ruột gan dường như héo hắt. Thế nhưng, dù cho ai đó có phụ tình thì nàng vẫn một mực đợi chờ:
Anh về Mỹ Á chi lâu,
Để em ôm chiếc thuyền câu một mình !
Mỹ Á là tên một cửa biển thuộc huyện Đức Phổ.
Những nàng con gái Quảng Ngãi ngày xưa sao mà chung tình làm vậy:
Đời nào bánh đúc có xương,
Dây tơ hồng có lá, nghĩa đá vàng vô tư !
Cửa Tam Quan nước cạn bày cừ,
Biển Sa Huỳnh khô tắc em mới từ nghĩa anh!
Họ luôn luôn thề nguyền một đời gắn bó keo sơn:
Thuốc ngon chợ Huyện,
Giấy quyến Sa Huỳnh.
Nẫu xa thì mược nẫu, hai đứa mình đừng xa !
...
Chợ phiên Tam Bảo được xem là phiên chợ lâu đời nhất của tỉnh Quảng Ngãi vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Đây là phiên chợ quy tụ những con buôn và khách hàng là người Kinh và người sắc tộc Hre. Tương truyền chợ phiên Tam Bảo xuất hiện từ trước thời vua Tự Đức (1848-1883). Phiên chợ chính thức họp tại Kim Thành Hạ thuộc quận Nghĩa Hành. Mỗi tháng chợ họp 2 phiên vào ngày mồng 2 và ngày mồng 7 âm lịch, sau tăng lên 6 phiên, vào các ngày mồng 2, 12, 22 và mồng 7, 17, 27.
Là người dân ở miền nam Quảng Ngãi, ai mà không nao nao tấc lòng mỗi khi nghe nhắc đến những tên gọi quen thuộc thân thương qua bài ca dao sau đây:
Kể từ Sông Vệ, Chợ Gò,
Ngó vô Thi Phổ thấy đò Dắt Dây.
Chợ Đồng Cát buôn bán sum vầy,
Ngó vô Lò Thổi thấy cây sùm xòa.
Tú Sơn một đỗi xa xa,
Ngó vô Quán Sạn bạn hàng đà nghỉ ngơi.
Chợ Huyện là chỗ ăn chơi,
Ngó vô Quán Vịt là nơi hữu tình.
Trà Câu sao vắng bạn mình,
Hai hàng châu lụy như bình nước nghiêng !
...
...
Quảng Ngãi tuy nghèo nhưng “học trò thì tư chất thông minh, nhiều kiến thức”(Đại Nam Nhất Thống Chí – Quảng Nghĩa Tỉnh). Do đó, vào thời Nho học còn được trọng dụng, tỉnh nầy đã có nhiều người đỗ đạt cao, đặc biệt là từ khi nhà Nguyễn cho lập trường thi Bình Định thì sĩ tử Quảng Ngãi đã có nguồn hứng để thi nhau dùi mài kinh sử.
Năm Tự Đức thứ 3 (Canh Tuất, 1850), nhà vua cho lập trường thi Bình Định giành riêng cho sĩ tử từ Quảng Ngãi đến Khánh Hòa, và sau đó cho cả Bình Thuận và Ninh Thuận.
Khoa hương thí đầu tiên được tổ chức vào năm Nhâm Tý (1852). Khoa nầy và 2 khoa kế tiếp, sĩ tử Bình Định đoạt thủ khoa, sĩ tử Quảng Ngãi chỉ đạt chức á khoa. Do đó tại Bình Định xuất hiện câu ca dao:
Tiếc công Quảng Ngãi đường xa,
Để cho Bình Định thủ khoa ba lần !
Sĩ tử Quảng Ngãi “hận” lắm. Họ cố dồi mài kinh sử. Quả nhiên, đến khoa Mậu Thìn (1868) và khoa Canh Ngọ (1870), sĩ tử Quảng Ngãi giành được cả 2 chức thủ khoa và á khoa. Do đó lại xuất hiện câu ca dao sau đây:
Tiếc công Bình Định xây thành
Để cho Quảng Ngãi vô giành thủ khoa !
Truyền thống hiếu học đó cũng đã sản sinh ra những vị quan danh tiếng của triều đình phong kiến. Chính các sử quan triều Nguyễn cũng đã nhận xét: “Địa thế tuy hẹp mà khí mạch tốt, nên đời nào cũng có nhiều người làm đến quan to chức trọng . . .” (Đại Nam Nhất Thống Chí – Quảng Nghĩa Tỉnh). Cái “khí mạch” đó đã sản sinh ra những vị quan danh tiếng một thời như Phan Khắc Thận người Bình Sơn, Trương Đăng Quế người Sơn Tịnh, Tạ Tương người Tư Nghĩa, Nguyễn Bá Nghi người Mộ Đức . . . Đáng lưu ý nhất là dòng họ Trương ở xã Sơn Mỹ, huyện Sơn Tịnh với Trương Đăng Quế là người Quảng Ngãi đầu tiên đậu Hương cống (tức Cử nhân) dưới đời vua Gia Long, sau ra làm quan to trải các triều Minh Mạng (1820- 1840), Thiệu Trị (1841- 1847) và Tự Đức (1848- 1883). Về sau con cháu của ông cũng nhiều người làm quan to trong triều ngoài quận, do đó dân gian địa phương đã truyền tụng câu ca dao :
Bao giờ thiện mã qua sông
Thì thôn Mỹ Lại mới không công hầu !
Thôn Mỹ Lại thuộc xã Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh nơi có bãi biển Mỹ Khê khá thơ mộng.
Sống trong một vùng đất nghèo nàn, cằn cỗi, “ăn bữa trưa, chừa bữa tối”, họ phải bòn mót tùng hạt lúa rơi, từng củ khoai sót . . . để thêm vào với số lương thực ít ỏi đã sản xuất được :
Khoai lang Đồng Ngổ,
Đỗ phụng Đồng Dinh
Chàng bòn, thiếp mót đổ chung một gùi.
...
...
Đời sống tuy có thiếu thốn, vất vả như thế, nhưng người đân Quảng Ngãi vẫn luôn luôn ung dung tự tại, nhiều khi còn biết dùng sự hài hước để mua vui cho quên đi bao nỗi nhọc nhằn trong cuộc sống hằng ngày.
Những thể điệu dân ca miền Ấn Trà, đặc biệt là giọng hát “hố”, như có cái ma lực ghê gớm để quyến rũ lòng người:
Tai nghe tiếng hố vọng đồng,
Ai có con cũng bỏ, ai có chồng cũng vong!
...
...
Họ cũng lấy làm thích thú trong cách chơi chữ ngộ nghĩnh:
Gái Thanh Khiết chuyên nghề “cải giá”,
Trai Sung Tích chuyên nghề “kén dâu”.
Thanh Khiết thuộc xã Nghĩa Hà (Tư Nghĩa). Dân vùng nầy sống bằng nghề sản xuất rau sống – trồng cải và làm giá đậu xanh. Bên kia sông trên bờ phía bắc là làng Sung Tích thuộc xã Tịnh Long (Sơn Tịnh). Dân ở đây xưa làm nghề trồng dâu, nuôi tằm. Cải giá vừa có nghĩa rau cải, rau giá, lại vưà có nghĩa “có chồng lần nữa!”. Kén dâu vừa có nghĩa là con kén và lá dâu tức nghề trồng dâu nuôi tằm lấy tơ kén để dệt lụa, lại vừa có nghĩa “kén chọn cô dâu!”.
Và cũng thật là ngộ nghĩnh trong cách trả lời “ỡm ờ” nước đôi:
– Hỏi thăm chú bán cót bán quynh
Thấy ngoài Bến Ván, Trì Bình gặt chưa?
– Bến Ván bán tới Quán Cơm
Gặt chưa không biết, thấy hai cây rơm ú ù!
Người hỏi chắc là một cô gái nên mới có câu trả lời “thấy hai cây rơm ú ù”! Chỉ có “hai cây rơm” thôi chứ không nhiều!
...
...
Lượng Tục ngữ Ca dao của quê hương núi Ấn sông Trà nhiều lắm. Ở đây người viết chỉ chọn những câu ghi lại địa danh của từng vùng thuộc địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Lượng ca dao nầy có lẽ còn nhiều, nhưng vì tài liệu sưu khảo có ít, sức hiểu biết của người viết cũng có ít, nên bài viết chắc còn nhiều thiếu sót, rất mong được lượng thứ.
ĐÀO ĐỨC NHUẬN
*Trích đoạn trong bài "TRÊN QUÊ HƯƠNG NGÀY XƯA
(VIẾT VỀ TỤC NGỮ CA DAO QUẢNG NGÃI)" của Tác giả Đào Đức Nhuận đăng trên https://thinhanquangngai.wordpress.com/2011/11/11/tren-que-h%C6%B0%C6%A1ng-ngay-x%C6%B0a/amp/
* Ảnh của Tác Giả: Nguyễn Văn Đảnh - Tác phẩm: Cuộc sống trên sông Trà
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét