Giới thiệu về tôi

Ảnh của tôi
Buôn Ma Thuột, Tây Nguyên, Vietnam

Thứ Tư, 2 tháng 9, 2020

LÀNG SÌNH, MỘT ĐỊA DANH GỐC CHĂM PA *Trần Thị Hồng Hạnh

 

31 tháng 8 lúc 19:21 
Đã chia sẻ với Công khai
Công khai
"Gặp nhau ở ngã ba Sình
Em xuôi anh ngược đem tình nhớ thương" (Ca dao)
LÀNG SÌNH, MỘT ĐỊA DANH GỐC CHĂM PA
*Trần Thị Hồng Hạnh
Xứ Huế vốn là một vùng đất có bản sắc độc đáo với những dấu tích về sự giao thoa văn hoá giữa các nhóm dân cư nói những ngôn ngữ khác nhau. Trong đó, có thể có không ít địa danh ở xứ Huế là dấu vết của quá trình giao lưu tiếp xúc giữa người Việt và người Chăm trong lịch sử. Bài viết nêu ra giả thuyết về nguồn gốc của địa danh làng Sình (xã Phú Mậu, Phú Vang, Thừa Thiên Huế) và thử lí giải địa danh này với tư cách là một bằng chứng cho thấy ảnh hưởng của cư dân Chăm đối với vùng văn hoá Huế.
...
Chúng tôi cho rằng, địa danh làng Sình có thể là một địa danh gốc Chăm. Địa danh này được đặt theo tên nghề truyền thống của làng, đó là nghề làm tranh khắc gỗ để thờ cúng. Cơ sở để đề xuất giả thuyết này cụ thể như sau:
3.1. Bằng chứng về văn hoá – lịch sử
Nhận định về vùng văn hoá xứ Huế, nhiều học giả đều thừa nhận vai trò quan trọng và ảnh hưởng sâu sắc của dấu ấn Chăm tại vùng đất này. GS Trần Quốc Vượng từng viết: “Từ đầu công nguyên đến thế kỉ XIV, xứ Huế là một vùng – miền của văn minh Chăm pa” [12; tr.388]. Thực tế là, Thừa Thiên Huế nói chung, thành phố Huế và các vùng phụ cận nói riêng là vùng đất sinh sống của người Chăm (Chàm) chủ nhân của vương quốc Chămpa – một vương quốc có nên văn hoá phát triển rực rỡ ở phía nam nước Đại Việt và vùng đất đã trở thành một bộ phận của Đại Việt nhiều thế kỉ, nhất là sau đám cưới giữa Huyền Trần Công chúa và Chế Mân năm 1306. “Song bấy giờ số dân Việt di cư vào đây còn ít, dân Chàm ở lại còn đông và trên vùng đồi núi dọc Trường Sơn, các tộc thiểu số ngữ hệ Môn-Khowme hay ngữ hệ Mã Lai như Vân Kiều, Pa Cô, Katu, Cor, Mnông, Mạ, Giarai, H’rê cũng còn đông đảo…Một xứ Huế thực Đại Việt có lẽ khởi hình từ thời Lê – Mạc và định hình từ thời các chúa Nguyễn Đàng Trong với chúa Sãi và các chúa tiếp theo trong các thế kĩ XVII-XVIII” [12; tr.390]. Bằng những việc phân tích các dấu tích khảo cổ học, các di tích lịch sử và những đặc trưng văn hoá kiến trúc, âm nhạc…, GS Trần Quốc Vượng đã nêu lên một nhận xét vô cùng quan trọng đối với việc nghiên cứu về Huế, đặc biệt về địa danh Huế: “Tôi cho rằng nếu không có cái nhìn giao thoa văn hoá – ngôn ngữ Việt – Chăm cũng như, nếu ở Mai Xá, (Quảng Trị), ở Thanh Hà – Bao Vinh (Huế), ở Hội An, (Quảng Nam)… ngoài cái nhìn trên, nếu không có thêm cái nhìn giao thoa văn hoá – ngôn ngữ Việt Minh Hương thì chẳng hiểu được gì (nhiều hay ít) về sắc thái văn hoá Bình – Trị – Thiên”[12;tr. 389]
Dựa trên các bằng chứng lịch sử và các thư tịch cổ, Hồ Trung Tú cũng viết về sự tồn tại của người Chàm trên vùng đất Thuận Hoá như sau: “Những năm ngay sau năm 1471, đất đai đã thuộc Đại Việt nhưng những vị quan cai trị vẫn là người Chàm… Có nghĩa rằng, sau năm 1471, mô hình “da báo” các làng Chàm – Việt là một sự thật khó chối bỏ” [10;tr.110].
Đại Việt sử kí toàn thư cũng có đoạn ghi chép nhắc đến sự hiện diện quan trọng của người Chăm vào thời kì bấy giờ. Dưới triều Lê Hiến Tông (năm Cảnh Thống thứ hai – 1499): “Tháng 8, ngày mồng 9, có chiếu rằng: Kể từ nay, trên từ thân vương, dưới đến dân chúng, đều không được lấy đàn bà con gái Chiêm Thành làm vợ, để cho phong tục được thuần hậu”. Chắc hẳn việc người Việt kết hôn với người Chăm, từ thân vương đến dân thường phải là một việc phổ biến đến mức triều đình phải có quy định như vậy.
Bên cạnh đó, các sách “Ô châu cận lục”, “Đại nam thực lục” đều cũng đều cho người đọc biết rằng, bản sắc văn hoá, thậm chí cả tiếng nói của người Chăm vẫn còn được lưu giữ khá nguyên vẹn cho đến đầu thế kỉ XVII. “Ô châu cận lục” của Dương Văn An có những đoạn viết về phong tục phủ Thuận Hoá như sau: “Người La Giang nói tiếng Chiêm, gái Thuỷ Bạn mặc áo Chiêm. Hoài Tài, Tân Lại, Đan Lương nửa phần giữ thói mây mưa; Bao Vinh, Lại Ân, Thế Lịa vẫn còn tục Giang Hán”. [1; tr.46]. Như vậy, sự hiện diện của văn hoá Chăm nói chung và ngôn ngữ Chăm nói riêng trên vùng đất Thuận Hoá xưa kia không có gì cần phải bàn cãi nhiều và sự hiện diện đông đảo ấy cũng đã để lại rất nhiều đặc trưng văn hoá nằm trong cơ tầng văn hoá xứ Huế. Đây chính là cơ sở cho phép chúng tôi nghĩ đến khả năng địa danh làng Sình chính là một dấu vết của sự giao lưu tiếp xúc văn hoá – ngôn ngữ Việt – Chăm.
3.2. Bằng chứng về ngôn ngữ
Năm 1943, trong khảo luận “Noms et lieux Cham – Annamites (Tên và địa điểm Chăm – Việt)”, học giả Nguyễn Văn Tố từng chỉ ra một số dịa danh ở Huế là dấu vết của các địa danh gốc Chăm như An Lỗ, Lai Trung, Liễu Cốc, Mậu Tài, Mỹ Xuyên, Nguyệt Biều, Thanh Phước, Tiên Nộn, Ưu Điềm. Trong đó, Mậu Tài và Thanh Phước có mối liên quan với làng Sình. Làng Sình vốn thuộc tổng Mậu Tài, còn làng Thanh Phước là làng đối diện với làng Sình về phía bên kia sông.
Theo hướng suy nghĩ như vậy, chúng tôi xét thấy về mặt ngữ âm lịch sử, âm tiết sình /ʂiɲ2/ hiện nay, về mặt cấu âm, có âm đầu âm tiết liên quan đến hiện tượng xát hoá âm mặt lưỡi với âm đầu /ciɲ2/. Thật thú vị là, trong tiếng Chăm chúng ta thấy có một dạng thức ngữ âm ching /ciɲ/ hay /ciŋ/ mang nghĩa là “khắc, khứa, khía (thành dấu)” [9].
Như trên đã nói, nghề truyền thống của làng Sình chính là nghề làm “tranh khắc”. Nghề in tranh khắc mộc bản ở Sình, ngay từ khi ra đời không thuần tuý phục vụ cho các thú chơi tao nhã, mà chủ yếu là đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của người dân địa phương, dùng để thờ, để hoá trong các lễ cầu an, giải hạn. Theo các nghệ nhân của làng kể lại, thời Trịnh – Nguyễn, người đầu tiên làm tranh làng Sình là ông Kỳ Hữu Hoà. Trong đoàn người tìm vào đất Thuận Hoá định cư, ông đã mang theo nghề làm tranh khắc mộc bản của làng quê mình – làng Đông Hồ để mưu sinh. Tranh làng Sình ra đời từ đó. Điểm giống nhau cơ bản của tranh làng Sình và tranh Đông Hồ: khắc gỗ để tạo thành các mộc bản để in ra giấy. Ngoài hai làng tranh này, ở Việt Nam, không còn có nơi nào làm tranh dân gian bằng cách khắc gỗ cả. Tuy nhiên, để phù hợp với nhu cầu tín ngưỡng trong các lễ cầu an, giải hạn của người bản địa, các bản khắc của tranh làng Sình có hình vẽ khác đi và tuân thủ tín ngưỡng cầu cúng của địa phương: tranh vẽ bản mệnh phụ nữ để cúng lễ; tranh vẽ Vua Thuỷ phù, Mẫu thuỷ cung, Ngũ vị long cung hoàng tử, Tam vị phạm tính, tranh lốt rồng lốt rắn v.v để lễ Thánh, lễ Thần.
Như vậy, có cơ sở để suy luận rằng, nghề làm tranh khắc gỗ đã theo chân những người di cư vào vùng đất Thuận Hoá. Văn hoá và ngôn ngữ Chăm lúc này vẫn còn có sức ảnh hưởng đối nên nghề làm tranh khắc gỗ đã được gọi tên bằng âm ching, có nghĩa là làng có nghề “khắc gỗ”. Trải qua bao biến động lịch sử xã hội, các văn bản gốc của làng Sình hiện nay góp phần lí giải cho tên nôm của làng đã không còn nữa. Tuy nhiên, sự tồn tại tên nôm đi kèm với tên chữ là điều thường thấy ở các làng xã Bắc Bộ cho phép ta khẳng định người bản xứ định danh tên làng theo nghề nghiệp. Điều đó có nghĩa, về nguồn gốc của chủ nhân lập làng Sình ở xứ Thuận Hoá này vào những năm giữa thế kỉ XVI có gốc tích từ Bắc với nghề “khắc gỗ”. Các làng xung quanh làng Sình không phải làng nào cũng có cả tên chữ Hán và tên Nôm đi kèm như vậy. Điều đó càng cho thấy tính chất đan xen “da báo” giữa các làng Chăm – Việt thời kì này ở xứ Thuận Hoá.
Như vậy là, những bằng chứng về văn hoá và ngôn ngữ vừa được phân tích trên đã giúp chúng ta có thể đưa ra một nhận định về nguồn gốc của địa danh làng Sình. Theo đó, đây là một địa danh ban đầu gọi theo âm tiếng Chăm là ching, được định danh dựa vào nghề nghiệp “khắc gỗ” làm tranh của làng; về sau âm tiếng Chăm ching ban đầu ấy được Việt hoá thành âm Sình như hiện nay. Do đó, làng Lại Ân có tên nôm là làng Sình, làng có nghề “khắc gỗ” in tranh. Ở đây, tên làng Sình cũng là kết quả của một quá trình giao lưu tiếp xúc ngôn ngữ, văn hoá Việt – Chăm trong lịch sử.
Tác giả: Phó Giáo sư, Tiến sĩ TRẦN THỊ HỒNG HẠNH
(Giảng viên Khoa Ngôn ngữ học – Trường ĐHKHXH&NV – ĐHQGHN)
Hình ảnh có thể có: đám mây, bầu trời, cây, ngoài trời, thiên nhiên và nước
San Lê Thị, Pham Kim Huong Bmt và 69 người khác
12 bình luận
5 lượt chia sẻ
Thích
Bình luận
Chia sẻ

Bình luận

  • Xưa nay nghe tên Làng Sình mà không biết và chưa thấy dù đã đi Huế vài lần, cảm ơn anh bạn đã share
    1
    • Thích
    • Trả lời
    • 1 ngày
    • Được "du phương thảo địa" là thích rồi 
      Kim Tuyet
      . Làng Sình Huế hiện nay nổi tiếng Hội Vật và Làng Tranh.
      1
      • Thích
      • Trả lời
      • 1 ngày
  • Ảnh chụp Ngã ba Sình thật là đẹp và chuẩn lắm anh Đạt à.
    2
    • Thích
    • Trả lời
    • 1 ngày
    • Cám ơn em. Anh nhặt trên mạng, may mà chuẩn...
      1
      • Thích
      • Trả lời
      • 1 ngày
    • Dạ anh! Đọc bài em mới biết về gốc gác, nghề in tranh và tên gọi của làng Sình, rất hay. Tks anh Đạt nhìu lắm.
      2
      • Yêu thích
      • Trả lời
      • 1 ngày
  • Những tư liệu quý giá để biết thêm về quê hương mình , đây là công của Xứ Thượng nhiều lắm đó. Thanks Xứ Thượng !
    1
    • Yêu thích
    • Trả lời
    • 1 ngày
  • Người dân ba tĩnh miền trung trung phần (châu Ô và Lý) , các làng xã đều có lăng mộ ngài khai khẩn. Ngài là người dẫn bà con từ phía Bắc nam tiến lập nghiệp. Con cháu bây giờ đang tìm về cội nguồn từ Ngài đề nhớ công ơn tỗ tiên hơn là nguồn gốc cũa vùn… 
    Xem thêm
    1
    • Yêu thích
    • Trả lời
    • 1 ngày
  • LÀNG vợ em hương cần ngay sông bồ
    1
    • Yêu thích
    • Trả lời
    • 20 giờ
    Xứ Thượng đã trả lời
     
    1 phản hồi
    4 giờ
  • ST những bài về Đà Nẵng í...
    1
    • Yêu thích
    • Trả lời
    • 7 giờ

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét