Giới thiệu về tôi

Ảnh của tôi
Buôn Ma Thuột, Tây Nguyên, Vietnam

Thứ Ba, 12 tháng 12, 2023

THẦY GIÁO NGUYỄN HỮU THẤU VỚI HƯỚNG ĐẠO SINH BMT *Trích theo Đỗ Minh Khôi

 

 
Đã chia sẻ với Công khai
Công khai
Tổ chức hướng đạo đầu tiên ở Ban Mê Thuột là một đội thiếu sinh gồm các em học sinh của trường Pháp – Rhadé Ban Mê Thuột ...
THẦY GIÁO NGUYỄN HỮU THẤU VỚI HƯỚNG ĐẠO SINH BMT
*Trích theo Đỗ Minh Khôi
Ít ai biết, từ những năm 1938-1945, thầy giáo trẻ Nguyễn Hữu Thấu* đã đưa phong trào Hướng đạo sinh lên Ban Mê Thuột (Đắc Lắc) và trở thành vị huynh trưởng mẫu mực của đoàn Ea Krong. Câu chuyện ấy được gợi mở thông qua hai di cảo của ông đang lưu trữ tại Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam.
Trong số 1.109 tài liệu - hiện vật của nhà dân tộc học Nguyễn Hữu Thấu mà gia đình đã trao tặng cho Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam vào năm 2011, có hai tài liệu liên quan đến phong trào Hướng đạo sinh ở Ban Mê Thuột (Đắc Lắc) hồi những năm 30 của thế kỷ XX.
...
Về lịch sử phong trào Hướng đạo trên thế giới và ở Việt Nam, có thể hiểu sơ lược như sau: Phong trào Hướng đạo khởi phát ở nước Anh vào những năm cuối thập kỷ thứ nhất của thế kỷ XX từ ý niệm và cách hình dung của một cá nhân – Baden Powell (1857-1941), là một quân nhân giỏi về trinh sát – quân báo… Ông thừa nhận Hướng đạo là trường học về lòng yêu nước bằng nghệ thuật của núi rừng… Trong cuộc thử nghiệm tại đảo Brownsea với 20 em nhỏ ở lứa tuổi thiếu niên, kết quả thật ngoài sự mong đợi, bùng nổ và truyền lan như thuốc súng trong Đảo quốc và bén nhanh qua đại dương và vào lục địa… Hai thập kỷ sau (1929-1930) phong trào Hướng đạo mới chớm vào Việt Nam. Nhóm thanh niên dân tộc đang trăn trở với vận mệnh đất nước sau việc thực dân Pháp đàn áp tàn khốc các cuộc nổi dậy của phong trào Văn thân, Đông kinh nghĩa thục và các cuộc khởi nghĩa Xôviết Nghệ Tĩnh – Yên Bái – Nam Kỳ – Đô Lương…, đã thấy ở phương pháp Hướng đạo một công cụ thần diệu giúp mình thực hiện lý tưởng, tạo ra những con người nhiệt tình với đất nước, với dân tộc[1]. Hội Hướng đạo Việt Nam được ông Hoàng Đạo Thúy[2] sáng lập vào năm 1930, trong thời thuộc Pháp. Để được phép hoạt động công khai, Hướng đạo Việt Nam phải cam kết không hoạt động và cổ động về chính trị. Sau này, ông Hoàng Đạo Thúy chia sẻ: Khi đó chúng mình có biết và nghĩ gì nhiều về hướng đạo đâu, mà chỉ coi đó là hội rèn luyện lòng yêu nước bằng phương pháp hướng đạo[3]. Trên thực tế, mục đích của giáo dục hướng đạo ngay từ thời Pháp thuộc là đào tạo những công dân tốt cho đất nước Việt Nam và điều này chính nó đã bao hàm một thái độ chính trị[4].
Cũng như nhiều thanh niên lúc bấy giờ, Nguyễn Hữu Thấu nhận thức được tác dụng và ý nghĩa lớn lao của phong trào Hướng đạo là nhằm giúp anh em hướng đạo bảo nhau yêu nước và tự rèn luyện thành người công dân tốt, sắp sẵn phụng sự Tổ quốc[5]. Vì thế, năm 1935, Nguyễn Hữu Thấu gia nhập Thiếu đoàn Đại La – Hà Nội, và từ năm 1936 đến 1937 ông tham gia Tráng đoàn Bạch Mã ở thành phố Huế. Cho đến khi được điều lên Đắc Lắc dạy tại trường Tiểu học Pháp – Êđê ở Ban Mê Thuột từ năm 1938 đến 1945, ông trở thành vị “thủ lĩnh” truyền bá và dẫn dắt phong trào Hướng đạo sinh ở đây phát triển một cách vững mạnh, góp phần gây dựng lực lượng trẻ nòng cốt đóng góp tích cực cho phong trào Việt Minh giành chính quyền tại tỉnh này hồi tháng 8-1945. Có tài liệu cho biết ngọn nguồn như sau: Tổ chức hướng đạo đầu tiên ở Ban Mê Thuột là một đội (patrouille) thiếu sinh gồm các em học sinh lớp 6 niên khóa 1938-1939 của trường Pháp – dân tộc thiểu số Ban Mê Thuột (Groupe scolaire franco minoritaire de BanMéThuot), gồm phần lớn là các em người Êđê hay được coi là như vậy, vài em người Giarai và một em người Mnông. Đoàn trưởng là một giáo viên, tên là Nguyễn Hữu Thấu… Anh đã thử đem áp dụng một số phương pháp giáo dục hướng đạo vào lớp năm thứ 5 mà anh phụ trách có kết quả[6].
...
Ban đầu, phong trào còn bó hẹp trong một số học sinh và công chức ở thị xã Ban Mê Thuột, nên thầy giáo Nguyễn Hữu Thấu tổ chức thành một đoàn, lấy tên là Ea Krong – tên một con sông ở tỉnh Đắc Lắc. Lúc này, đoàn Ea Krong có một đội Hướng đạo sinh khoảng 20 em học sinh dân tộc thiểu số, một đội Sói con là các em bé người Kinh – lúc đông nhất khoảng 14 em, và một đội Tráng sinh khoảng 10 viên chức người dân tộc và người Kinh[9]. Trong bản thảo bài tham luận năm 1991, ông Nguyễn Hữu Thấu chỉ rõ: Thành phần tham gia: học sinh, công chức, thợ thủ công (chủ yếu là học sinh và công chức). Vì học sinh học hết 2 năm là ra trường về quê hoặc đi làm xa, nên hàng năm chỉ bổ sung được số lượng ra đi. Về công chức thì từ ngày có phong trào, anh em trẻ đều kiên định ở lại BMT. Trước đó, ai lên làm việc 2 năm là xin về xuôi.
...
Hình thức sinh hoạt ngoài trời được tổ chức trong rừng sâu, bên khe suối. Các buổi đi cắm trại, lao động, thăm danh lam thắng cảnh… có tác dụng rèn luyện thêm sự tháo vát, năng động cho các hướng đạo sinh. Ông Thấu còn cho tổ chức các hoạt động kiểu vừa học vừa chơi như tìm phương hướng trong rừng, đắp đập ngăn khe, băng bó vết thương, ca hát nhảy múa... Những hoạt động như thế, theo ông Thấu nhận xét trong tham luận năm 1994 thì rất thích hợp với tâm sinh lý cố hữu của họ, nên họ tiếp thu rất nhanh và mau chóng trở nên thành thạo. Nói chung, so với nhiều hướng đạo sinh cùng lứa người Kinh thì hướng đạo sinh người Thượng có phần tiếp thu nhanh hơn và thực hiện thành thạo, chuẩn xác hơn. Qua tiếp xúc trong môi trường tập thể, cùng sinh hoạt với huynh trưởng và tráng sinh người Kinh, hướng đạo sinh người Thượng dần nhận thấy sự thân thiện Kinh – Thượng, họ thấy các huynh trưởng người Kinh cũng thân tình, ngay thẳng, thật thà và chăm chỉ, khác hẳn với những lời xuyên tạc của thực dân Pháp. Nhờ vậy, đã có một sự chuyển biến tích cực, được ông Thấu đề cập tiếp trong bản tham luận năm 1994: Từ đó, sự ngăn cách giữa người Kinh và người Thượng từng bước được khắc phục, thành kiến với người Kinh giảm đi rõ rệt. Trong đoàn hay đội Hướng đạo sinh, tất cả cùng nhau tham gia các trò chơi, cùng nhau cắm trại…, qua đó càng làm cho họ đoàn kết, gắn bó thân tình hơn. Đó cũng là quá trình người Thượng và người Kinh học tiếng nói của nhau, chuyện trò và tâm tình với nhau, gần gũi và hiểu nhau như anh em một nhà.
Bên cạnh đó, huynh trưởng Nguyễn Hữu Thấu chủ trương thực hiện phương pháp tự quản, cho các đội trưởng và các thành viên là người Thượng từng bước làm quen với lối sống tự quản, tự vạch ra chương trình, kế hoạch và điều hành các hoạt động của đội hay đoàn mình. Chính cách làm đó đã giúp các hướng đạo sinh gia tăng sự tự tin, lòng tự trọng, giảm đi tính e dè, thụ động, nhờ vậy học lực của nhiều em được nâng lên và trở thành học sinh khá, giỏi. Vẫn trong bản tham luận năm 1994, ông Thấu có kể về một sự kiện: Năm 1942, tên giám thị của trường Pháp – Êđê Ban Mê Thuột bắt học sinh phải tăng thêm giờ lao động sản xuất, nhưng lại cắt bớt phần ăn, thì học sinh hướng đạo Y Wing đã cùng với các hướng đạo sinh khác vận động tất cả các học sinh dân tộc đứng lên phản đối và kéo nhau lên gặp hiệu trưởng người Pháp để tố cáo những hành động hà khắc của tên giám thị. Cuối cùng, hiệu trưởng phải bãi bỏ việc tăng thêm giờ lao động và khôi phục lại khẩu phần ăn cho học sinh như cũ. Điều đó thể hiện sự tự tin, lòng dũng cảm và tinh thần đoàn kết đứng lên đòi quyền lợi của các hướng đạo sinh người Thượng, đồng thời tâm lý sợ người Pháp của họ giảm đi đáng kể.
Cũng qua các buổi sinh hoạt tại đoàn và đội, huynh trưởng Nguyễn Hữu Thấu cho các hướng đạo sinh tập một số bài hát Việt Nam có nội dung yêu nước như “Bạch Đằng giang”, “Thanh niên hành khúc”…, bên cạnh những bài hát tiếng Pháp và tiếng dân tộc. Ông còn cho tổ chức diễn kịch về những nhân vật lịch sử có công chống ngoại xâm như Hai Bà Trưng, Ngô Quyền… Những việc làm cụ thể này dần dần gợi mở cho học sinh người Thượng một ý niệm về Tổ quốc Việt Nam, dân tộc Việt Nam, mà trước đó họ rất mơ hồ. Họ hiểu rằng mình cũng là thành viên của đại gia đình các dân tộc Việt Nam đã có mấy nghìn năm lịch sử anh hùng, bất khuất – ông Thấu viết trong bài tham luận năm 1994 như vậy.
Có thể nói, phương pháp hướng đạo của thầy giáo Nguyễn Hữu Thấu đã có tác động rất lớn đối với các em học sinh người Thượng ở Đắc Lắc. Nếu ý đồ của thực dân Pháp là đào tạo học sinh để cung cấp cho các đội lính khố xanh, khố đỏ địa phương[11] và làm cai ký đồn điền, thì sau khi tốt nghiệp ra trường, hầu hết số học sinh là hướng đạo sinh đã chọn theo nghề thầy giáo, y tá hoặc viên chức để sinh sống.
...
...
Đỗ Minh Khôi
*Ảnh trên Facebook Hướng Đạo DakLak.
Không có mô tả ảnh.
Tất cả cảm xúc:
Hung Kieu, Quách Bằng và 70 người khác
21
4
Thích
Bình luận
Chia sẻ
Xem thêm bình luận
Tống Mỹ Linh
NHỚ NGÀY XƯA ĐI HƯỚNG ĐẠO Ở TỔNG HỢP .ANH TOÀN TIỆM HẢI KÝ LÀ HUYNH TRƯỞNG .CÒN HĐQĐ thì ở sư đoàn 23

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét