Giới thiệu về tôi

Ảnh của tôi
Buôn Ma Thuột, Tây Nguyên, Vietnam

Thứ Hai, 14 tháng 8, 2023

DÒNG SÔNG MIỀN THƯỢNG *Nguyễn Hàng Tình

 

 
Đã chia sẻ với Công khai
Công khai
Người sơn nguyên thuần khiết, nhạy cảm, dính chặt với con suối, dòng sông.. thích nghi với núi lạ, đất khác nào dễ, sự thích nghi phải tính bằng đời người, thế hệ.. (Dòng Sông Miền Thượng, Mi Đang Chảy Đi Đâu-Nguyễn Hàng Tình)
DÒNG SÔNG MIỀN THƯỢNG
*Nguyễn Hàng Tình
Tan vỡ
Người M’nông có câu: “Tu đak manh mih”, nghĩa rằng sông chảy nhờ nguồn nước, suối sông là thứ quý báu nhất trên đời. Họ mang ơn sông suối ấy với một hạnh phúc chân thật và giản dị: “Brô tâm đak nsit ko” (xuống sông là phải mang cá về).
Ngày sông Sê San ở Kon Tum và Gia Lai được chặn lại để làm thuỷ điện Ia Ly, để ý tôi thấy người Bahnar, Jrai, Rơ Ngao thẫn thờ. Dù thẫn thờ, nhưng họ vẫn vỗ tay. Chắc họ biết hy sinh khúc ruột, dòng sông, để vì đất nước, cần điện cho phát triển. Ngày thuỷ điện Đồng Nai 3 chặn dòng sông Đồng Nai, tôi thấy người Mạ của K’Nhal ở Dăk Glong của Dăk Nông và người K’ho ở Đinh Trang Hoà (Di Linh, Lâm Đồng) ngơ ngác. Dòng sông Dạ Dờng bỗng cái đùng biến mất, mà với con người ở tâm thế chân thật hoang sơ tiếc xót là phản xạ rất thiên nhiên. Con sông cùng với núi rừng bao quanh thành hồ mênh mông, mất đường đi, lối về, ruộng vườn lẫn quê quán. Nhưng con hồ tích nước nằm trên núi rừng quê xứ từ đấy đã thuộc công ty thuỷ điện kia chứ không còn của tạo hoá, của chung cộng đồng như bao ngàn năm nay nữa. Ngày thuỷ điện Đăk R’tih ở ngoại ô Gia Nghĩa (Dăk Nông) chặn dòng sông Đăk R’tih, tôi thấy người M’nông R’lăm lặng thinh rời xa nó. Ngày thuỷ điện Plei Krông ngăn sông Pôko (Kon Tum), người Xê Đăng quanh đấy vẫn đi rẫy trồng mì. Ngày thuỷ điện Buôn Tua Sar chặn dòng sông Krông Nô, dải đất mênh mông với sự thống trị của cây bắp khi mùa mưa về mà tôi từng dạo bước trên đó và gọi là “Thảo nguyên của người nghèo”, chợt nhận ra những làng M’nông Gar lâu đời đó đã đi đâu mất biệt. Ngày thuỷ điện Sêrêpôk 3 và 4 chặn sông Sêrêpôk, người Êđê, Lào, M’nông ở quanh những cánh rừng khộp Cư Jút và Buôn Đôn vẫn đi trồng càphê, và cuối buổi chiều ra tắm trên sông Sêrêpôk lần cuối. Ngày thuỷ điện Đachamo khởi công, dân buôn Đa Nghịt ở rừng Lạc Dương bồng bế con đi xem cờ phướn giăng đầy… Người sơn cước hồn hậu, trong sáng, ngơ ngác, hy sinh, chấp nhận. Và có thể, góc nào đó trong lòng, họ cũng mở ra những hy vọng đổi thay, sang giàu cho chính họ, vào một ngày nào đó. Mà hình như nếu không hy sinh họ cũng không có lựa chọn nào khác. Ngày thuỷ điện Ia Ly khởi công công trình trên lưu vực sông Sê San ở phía Gia Lai, thì nơi hạ lưu cách đấy chục cây số theo đường chim bay, tôi nhớ nhà khảo cổ học Nguyễn Khắc Sử hối hả đêm ngày huy động khai quật di chỉ của người tiền sử ở Lung Leng cho kịp trước khi nó chìm trong nước, bởi con hồ khổng lồ nuốt hết núi rừng để tích nước cho thuỷ điện. Những gì đào dưới Lung Leng, giáo sư Sử khẳng định Tây Nguyên là một vùng đất cổ xưa, thời tiền sử đã xuất hiện những cộng đồng người. Nay giáo sư Sử có lên Kon Tum, nhìn xuống hồ Ia Ly thì báu vật Lung Leng kia trở thành một cái gì đó cứ như không có thật, cho dù di vật có còn chất đầy trong bảo tàng Kon Tum.
Giờ đi qua sông núi miền Thượng, tôi nhận ra những biến thiên, xáo trộn, đổi thay từ trật tự của những con sông, ngọn núi, cho đến tâm hồn người. Khi một thuỷ điện ra đời nó xáo tất cả lên, thay, đổi, biến, động. Những con sông, dòng suối tan vỡ đời sông đời suối, nương rẫy trở thành đất thuộc lưu vực của hồ thuỷ điện, và nhất là những làng người phải di chuyển đi nơi khác. Sông, động mạch của cơ thể quê xứ, vào một ngày bỗng thở hổn hển, đứt đoạn, biệt xứ. Vĩnh biệt những “bến nước”. Vĩnh biệt những con thuyền xuôi ngược dòng sông.
Nhiều năm nay, những bộ phim tư liệu hay và gây ấn tượng lâu bền nhất trên hệ thống truyền hình nước nhà là những bộ phim làm về những dòng sông. Phim tài liệu mà nhà đài vẫn “ăn” quảng cáo no nê, vừa chiếu phim vừa độn Omo, dầu gội đầu, nước rửa chén, kem đánh răng, bia bọt… Không biết có phải do sông kể quá thật về cuộc đời của nó cùng những gì đôi bờ nó chảy qua, gồ ghề nhất là thân phận con người. Và suốt năm năm qua, chục kỳ họp Quốc hội, ở ngoài thủ đô, không kỳ nào chuyện sông miền Thượng và thuỷ điện ở núi rừng xa xôi không được đưa ra nghị trường.
Chưa bao giờ người ta nói về sông nhiều đến vậy, ở đất nước này.
Gần 300 dự án thuỷ điện lớn nhỏ đã và sẽ hình thành, thì quê xứ nào còn, rừng núi nào bình yên, sông nào còn hình hài. Theo một người chuyên làm thuỷ điện nói với tôi, thiên hạ ùn ùn đầu tư vào thuỷ điện vì điện là thứ không bao giờ sợ ế, và sở hữu những vùng sơn thuỷ mênh mông khi tạo ra hồ thuỷ điện là thứ tài sản vô giá, có nhiều cách để sinh lợi từ nó, không thể mua. Có những con sông bị đoạn ra làm 14 lần. 14 lần đau trên một cơ thể tự nhiên. Khi sông không còn chảy thuận dòng thì nó chỉ là những đoạn núi non tụ nước, như những ao tù mà K’Nhal đi bắt cá, chứ sao là “sông” nữa được. Không còn chảy một dòng thì thuỷ sinh, thuỷ lâm… ở nơi từng là sông ấy phá vỡ cấu trúc hết rồi. Sông ngòi không còn là sông ngòi. Và mỗi thuỷ điện ra đời từ 2.000 – 12.000 người phải tách khỏi cội quê, di dời. Có lần, ông Huỳnh Lê Trung, chuyên gia thuỷ điện hàng đầu với 30 năm trong nghề nói với tôi rằng, chính ông cũng “xót” với cách phát triển thuỷ điện ở Việt Nam: không hề có quy hoạch tổng thể môi trường và văn hoá chiến lược cho cả con sông mà chỉ quy hoạch cho từng thuỷ điện; còn đánh giá tác động môi trường lại do chủ đầu tư thuê tư vấn riêng thực hiện. Ông cũng lạ lẫm vì nguyên tắc để những dòng sông không “chết”, đứt gãy, thế giới người ta buộc làm thuỷ điện bao giờ cũng đặt nhà máy phát điện ở hai đầu, để đổ nước xuống trở lại hai đầu sông. Nhưng ở Việt Nam thì tất cả đổ xuống một đầu, cứ trên đổ xuống thấp, vì tiết kiệm chi phí đầu tư. Doanh nghiệp lợi, chỉ cộng đồng thì chồng chất đau, thiệt.
Tôi biết từ dạo đó, năm 2001, khi làn sóng thuỷ điện quét qua thì sự đúng nghĩa của con sông đã biệt xứ. Không còn có thể cho một con thuyền xuôi dòng được nữa, như K’Nhal bất lực nhìn bậc thang thuỷ điện trên dòng sông quê. Câu cửa miệng của dân gian: “Ai về nhắn với bạn nguồn/ Mít non gửi xuống cá chuồn gửi lên” theo đường sông muôn đời qua, nay coi như chấm dứt. Nếu có gửi, hãy gửi xe đò, cô bác miền ngược, miền xuôi nhé. Rất nhanh, tiện, mít khỏi héo mà cá khỏi ươn. Chỉ có điều… nhớ sông đứt ruột.
Những dòng sông lần lượt chết. Chết thật, chứ không phải lâm sàng. Và chết vì thuỷ điện chứ không phải vì nước thải công nghiệp như sông dưới xuôi. Vốn ăn đời ở kiếp với sông, bỗng một ngày mất sông, con người di dời đến nơi khác sinh sống. Người sơn nguyên thuần khiết, nhạy cảm, dính chặt với con suối, dòng sông; thích nghi với núi lạ, đất khác nào dễ, sự thích nghi phải tính bằng đời người, thế hệ. Con người sống nặng tình với nơi ở, không muốn xa cảnh vật quen, thì cần nó như dinh dưỡng. Gọi đúng tên, đó là dinh dưỡng tinh thần. Không có quá khứ thì tựa vào cái gì.
Gần đây, cứ ít tuần trên VTV lại xuất hiện một phóng sự kể những làng người bị di dời vì thuỷ điện không chịu ở nơi được bố trí định cư mà quay về quê cũ dựng chòi ở “chui” (vì đất đã giao cho dự án), mở lại rẫy vườn ở mảnh đất con con còn sót, nước ngập không tới. Bà con không ý kiến gì cả, cũng chẳng đòi hỏi, chỉ thấy họ lặng lẽ quay về như thế. Là kẻ ta bà ham chơi, thế mà lần nào xem chuyện không mới đó vẫn quặn lòng.
Như mọi chốn xứ, con sông là vật công bằng cho tất cả cư dân, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, vị trí xã hội, trong cái cuộc tình “con người và dòng sông” chảy qua nơi sinh sống. Tây Nguyên hy sinh cả những điều sâu kín, thiêng liêng nhất của kiếp con người. Như bao người bản địa tôi đã gặp trên hành trình qua nhiều con sông trên Tây Nguyên, K’Nhal tâm sự bây giờ anh không còn đoán định được khi nào nước sẽ dâng cao dù ở những đoạn sông thân thuộc, và anh không còn hiểu được sông nữa, vì dòng nước đã không còn là sản phẩm của tự nhiên. Con người đã tác động, thay đổi toàn bộ cấu trúc tự nhiên của dòng sông. Người M’nông, một sắc dân lâu đời ở Tây Nguyên có câu: “Đuk he ri đa bon tâm đak” – dịch ra tiếng phổ thông là: “Lỗi của con người đừng quăng xuống dòng sông”. Người Kinh một thời cũng có bài hát nổi tiếng Sông Đakrông mùa xuân về, giai điệu thật hùng tráng và huyền ảo về dòng sông miền Thượng: “Tôi hát cho dòng sông Đakrông luôn chảy xiết/ Tôi hát cho nhà rông đêm ngày luôn đỏ lửa; cho tiếng đàn t’rưng vang đầy dòng suối/ Đakrông ơi, dòng sông xanh thẳm/ Tây Nguyên ơi…” Sông chảy về tim tha nhân. Nhưng thiên nhiên đã tan vỡ cả rồi, hào khí sông kia mới đó cũng đã như cơn lũ quét qua.
Làm sao đo được năng lượng của một dòng sông trong lòng người.
Nguyễn Hàng Tình
*Trích phần “Tan Vỡ" trong bút ký Dòng sông miền Thượng, Mi đang chảy đi đâu của Nguyễn Hàng Tình đăng trên https://www.thiennhien.net/.../dong-song-mien-thuong-mi.../
*Ảnh Ban Mê Thuột (Đắk Lắk) 1969 - Photo by Larry Pyrzynski.
Có thể là hình ảnh đen trắng về 1 người, đang bơi, con voi và thủy vực
Tất cả cảm xúc:
Thái Hải, Lê Thị San và 66 người khác
5
3
Thích
Bình luận
Chia sẻ
An Trinh
Làm sao đo được năng lượng của một dòng sông trong lòng người
Câu kết luận của bài viết khiến lòng người nao nao tôi không biết phải viết như thế nào để tỏ rõ được cái cảm nhận chua chát và thương đau này
Xin cảm ơn tác giả rất nhiều hi vọng ở bài viết… 
Xem thêm
2

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét