Ban Mê Thuột và tuổi thơ của tôi...
(Bài viết của Trâm Anh)
(Bài viết của Trâm Anh)
TRƯỜNG TIỂU HỌC NGUYỄN CÔNG TRỨ
Tôi sinh ra ở Sài Gòn và lớn lên tại Ban Mê Thuột, một thị xã nhỏ hiền hòa thuộc miền Cao nguyên Trung Phần. Nếu không có biến cố lịch sử xảy ra, có lẽ tôi sẽ sống hoài ở đây.
Tôi còn nhớ mãi năm đầu tiên vào học lớp Năm A do cô Uyên làm chủ nhiệm tại trường Nguyễn Công Trứ. Cô có dáng người dong dỏng và hay bới tóc cao. Cô rất dữ đòn, học sinh nào nói chuyện nhiều trong lớp thường bị cô đánh đòn. Có lần một bạn nói chuyện trong lúc cô lên văn phòng uống nước, trở về lớp nhìn thấy, tiện tay cô cầm cái ly gõ lên đầu bạn đó, làm bạn chảy máu đầu. Ngày đầu tiên tan học về, ra cổng trường không thấy bóng mẹ, tôi vừa khóc vừa theo chân các bạn đi phía trước. Được nửa đoạn đường, nghe tiếng gọi, quay lại thấy mẹ ở sau, tôi mừng quá nín khóc liền. Mẹ dặn tôi lần sau nhớ đứng trước cổng trường đợi mẹ, không được tự ý đi về. Thật ra lúc đó tôi khóc vì không biết nhà mình ở đâu. Cạnh nhà tôi là nhà của bác Thiều (bác gái là cô giáo Tĩnh), chính là bố mẹ của Chu Tiến Cương (bạn học chung lớp Tám Một). Chị em tôi thường hay chơi với chị Định, chị Yến, chị Phượng (chị của Cương). Mỗi lần nấu món gì nhân ngày giỗ, mẹ lại sai chị em tôi mang qua biếu hai bác và ngược lại có quà gì từ Sài Gòn gửi lên, bác lại sai các chị mang qua nhà biếu bố mẹ tôi. Phải nói là hai gia đình rất thân nhau. Nhưng chẳng bao giờ tôi nói chuyện với Cương. Ngay cả sau này, khi Cương học cùng lớp Sáu, Bẩy và Tám. Cương rất hiền và học khá.
Tết Mậu Thân 1968, chiến tranh bùng nổ. Năm đó lần đầu tiên tôi nghe được tiếng súng đạn. Hầm chỉ là cái bàn ăn cơm trên chất vài cái gối. Nghe tiếng pháo kích, mẹ gọi chị em tôi chui xuống gầm bàn. Tôi quá sợ hãi. Bố tôi ở trong quân đội nên có lệnh cấm trại 100%. Ở nhà chỉ có mấy mẹ con với nhau. Sáng hôm sau nhìn ra cửa thấy mọi người bỏ chạy khỏi nhà để tránh bị pháo kích, mẹ dắt các chị em tôi chạy đi lánh nạn ở tại nhà bà cụ Thái làm giò chả ở đường Y Jut. Vài ngày sau, êm tiếng súng, bố cho xe đón mẹ và các chị em tôi vào Quân Y Viện ở tạm. Được hơn tuần, hai bên ngưng bắn, mẹ và chị em chúng tôi về nhà trước, còn bố tôi vẫn ở lại bệnh viện. Trên đường từ Quân Y viện về nhà đường Hàm Nghi, dọc hai bên đường người và súc vật chết la liệt. Những xác heo chết trương phềnh lên. Đường phố vắng lặng không một bóng người. Thỉnh thoảng mới có một vài chiếc xe Jeep chạy trên đường.
Vài tháng sau Tết, bố tôi lên nhận chức vụ Chỉ Huy Trưởng Quân Y Viện Ban Mê Thuột. Chia tay với căn nhà quen thuộc ở đường Hàm Nghi, bố mẹ tôi dọn về căn nhà ở Cư Xá Độc Lập, khu cư xá dành cho sĩ quan, ở gần cổng số Một. Tại đây, hàng xóm với bố mẹ tôi là Bác Sĩ Minh (là ba má của Phan Ngọc Quang). Cô Cúc (má Quang) là giáo viên trường Tiểu Học Nguyễn Công Trứ. Mẹ tôi chơi khá thân với má Quang. Nhưng một lần nữa chẳng bao giờ tôi nói chuyện với Quang, ngay cả sau này tôi học chung lớp với Quang trong ba năm ở cấp ba.
Khi nhận chức vụ mới với nhiều trách nhiệm nặng nề hơn, bố tôi vẫn dành thời gian dạy các chị em tôi học. Buổi tối sau khi cơm nước xong, mấy chị em tôi lại mang vở ra cho bố xem. Năm đó tôi học lớp Tư của cô Tâm. Đầu tiên là bố kiểm xem có đánh rơi mực làm lem vở không,vở có bị quăn góc không, bài làm có bị điểm kém không, tất cả những lỗi đó đều bị bố tôi khẻ tay. Sau đó là bố dạy các chị em tôi làm bài tập nhà. Suốt trong thời gian từ lúc nhỏ cho đến khi tôi học lớp mười, bố tôi vẫn dạy các chị em học (sau năm này thì bố tôi đi học tập). Những bài toán về Đại số, Hình học, Lượng Giác, Lý, Hóa khó không làm được, bố tôi đều giải một cách rõ ràng, dễ hiểu. Nhưng mà với điều kiện các chị em tôi phải thuộc công thức khi bố hỏi đến. Vì theo bố tôi, không thuộc bài, không thuộc công thức làm sao có thể giải được một bài toán. Mở đầu là học cửu chương. Cứ mỗi ngày tôi phải học thuộc một cửu chương và ngày kế tiếp học ngược lại cửu chương đó từ dưới lên. Buổi trưa khi bố đi làm về, tôi phải đọc cho bố nghe. Khi đã học thuộc hết chín cửu chương, thì bố tôi dò lại tất cả từ hai đến chín và sau đó lại đọc ngược từ dưới lên. Thuộc lòng cửu chương rồi nhưng hai chị em tôi phải thường xuyên ôn để nhớ, thỉnh thoảng bố tôi hỏi năm lần bảy là mấy mà trả lời ấp úng thế nào cũng bị phạt. Ở đây xin mở ngoặc là trong những năm đầu mới ra trường, bố tôi làm việc tại Quân Y Viện Đà Nẵng. Buổi tối bố tôi dạy kèm luyện thi Đại Học tại một nhà thờ gần đó do một Cha mời bố tôi dạy. Lớp luyện thi của bố tôi lúc nào cũng đông học sinh. Chính một bác Luật Sư, sau này kể lại cho chị em tôi nghe rằng, bác rất khâm phục bố tôi vì kiến thức không chỉ giới hạn trong ngành Y mà tầm hiểu biết rất rộng trong những lãnh vực khác.
Xin trở lại câu chuyện của những năm Tiểu Học. Năm lên lớp Ba tôi học lớp cô Minh tại trường Bà Triệu (lúc này trường Nữ đã tách riêng với trường Nam Tiểu Học Nguyễn Công Trứ). Bắt đầu học đến xem giờ,nên chiều nào mẹ tôi cũng lấy đồng hồ cũ ra vặn giờ và dạy cho tôi. Qua đến năm lớp Nhì, tôi học lớp cô Sĩ. Cũng trong năm này, bố mẹ tôi đón anh Tuấn, học lớp Tám (là con trai của bác tôi)lên để nuôi ăn học, vì anh mồ côi cha mấy năm nay. Anh Tuấn rất vui và cũng thích chơi với 5 chị em gái chúng tôi, ngay cả những trò chơi của con gái như lò cò, nhảy dây, đá cầu. Ngược lại chẳng ai chịu chơi bắn bi với anh ấy. Rồi anh chỉ cho mấy chị em tôi dùng miếng xốp (loại thùng cà rem) bỏ vào xăng máy bay thành một thứ keo láng, và quết lên những hòn đá đã rửa sạch để chơi ô quan. Anh còn chỉ cho dùng màu nước để làm những tấm thiệp Tết hay Noel. Thời gian này mẹ tôi đã sanh thêm em trai đầu tiên. Anh vẫn phụ với chị em tôi bế em khi cần. Bố mẹ tôi rất nghiêm khắc với con cái. Trước giờ đi làm, bố tôi luôn xuống phòng các chị em xem có ngủ trưa không, ngủ thật hay ngủ giả vờ. Anh Tuấn được miễn ngủ, vì đã lên Trung Học. Bởi vì bố tôi luôn nói rằng, giấc ngủ trưa rất quý, còn nhỏ không phải lo toan gì mà không ngủ, mai sau có muốn ngủ cũng không được. Có những công việc phải bỏ ngủ trưa để làm kiếm sống. Vậy mà cũng có lần chị em tôi trốn ngủ trưa, rón rén ra sau vườn chơi xây nhà trên cát cùng với anh Tuấn. Đống cát khá to. Mỗi chị em tôi chọn một chỗ để làm nhà. Chị tôi làm núi lửa, tôi làm nhà hai tầng, em tôi đào ao, làm mương..., anh Tuấn xây bệ gắn chong chóng quay. Chơi mãi mà không biết chán. Thời gian này có hai chú lính đến giúp việc cho bố mẹ tôi. Chú Năm thì giặt quần áo cho chị em tôi và lau chùi bàn ghế trong nhà. Chú Rạng thì đi chợ và chăm sóc vườn tược. Tiếng là giúp việc nhưng có hôm chẳng có việc gì mẹ tôi nói các chú nghỉ ở nhà hoặc là làm nửa buổi rồi về. Mẹ tôi vẫn lo cơm nước hàng ngày. Mẹ tôi nấu ăn rất ngon. Cuối tuần thì mẹ tôi bắt chị em tôi tự giặt quần áo và dạy chị em tôi nấu cơm, nhóm bếp. Bố mẹ tôi luôn muốn con gái phải biết qua công việc nội trợ chứ không ỷ vào người khác.
Qua năm lớp Nhất, tôi học lớp cô Ngoạn. Hè năm đó, tôi học luyện thi Đệ Thất tại nhà cô. Anh Tuấn chuẩn bị vào lớp Mười. Bỗng dưng một buổi sáng sớm, tôi giật mình thức dậy vì thấy cả nhà xôn xao. Trước đó cả hai tuần, anh Tuấn chẳng nói năng gì, ai sai bảo làm gì thì làm mà không nói. Đến giờ ăn thì vào ăn. Bố mẹ tôi có gạn hỏi anh cũng chẳng trả lời mà cứ ngồi buồn buồn. Một tuần sau anh lại bỏ ăn. Sợ anh mất sức lả đi, bố tôi cho anh vào bệnh viện để truyền nước biển. Trước khi đi, mẹ tôi sai tôi pha cho anh ly sữa nóng và ép anh uống. Đó cũng là lần cuối cùng chị em tôi nhìn thấy anh Tuấn. Bởi vì hai ngày sau, một buổi chiều chú lính đến đón tôi tại nhà cô Ngoạn và báo tin là anh Tuấn đã mất rồi. Quay xe về nhà chú chở hết tất cả chị em tôi lên bệnh viện để nhìn anh lần cuối trước khi liệm.
Bác gái tôi nhận điện tín từ Sài Gòn cấp tốc mua vé máy bay lên. Nhưng thật ngạc nhiên là khi bác vuốt mắt anh thì mắt lại không nhắm hết. Chú lính vội báo tin cho bố tôi biết. Bố tôi từ văn phòng xuống nhà xác, vừa khấn vừa vuốt mắt cho anh, thế là mắt anh Tuấn mới chịu khép chặt. Có thể anh muốn giành một phần tình cảm cho người chú đã nuôi dạy anh trong mấy năm trời chăng? Đám ma của anh khá lớn. Cho đến giờ này chẳng ai biết anh chết vì bệnh gì, nhưng anh rất linh thiêng. Lúc còn sống trong gia đình bố mẹ tôi, anh hay thích ăn bánh mì thịt. Mỗi năm đến ngày giỗ anh, nếu bận quá không làm gì được thì chị em tôi cũng nhớ mua ổ bánh mì thịt đặt lên bàn thờ của anh Tuấn. Sau ngày chôn anh Tuấn rồi, chị em tôi mới thấy buồn. Vừa buồn lại vừa sợ ma. Bất cứ lúc nào mẹ tôi sai xuống nhà sau lấy gì hoặc muốn uống nước, cả mấy chị em liền rủ nhau đi thành hàng dài, vừa đi vừa nói chuyện để ma có thấy thì không dám đến (đúng là con nít còn ngây thơ). Chẳng biết nếu có ma thật thì ma không dám đến hay là chị em chúng tôi bỏ chạy trước. Rằm tháng Bảy năm đó, không còn anh Tuấn để dành nhau bánh kẹo sau khi mẹ tôi cúng cô hồn, mà ngược lại chị em tôi còn phải chắp tay trước bàn thờ cúng anh Tuấn nữa.
( Trích Phần 1, Ban Mê Thuột và tuổi thơ của tôi của Trâm Anh)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét